Khoa học công nghệ đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế

Sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khoá XI, lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế của quốc gia.

Đây là kết quả được khẳng định tại Hội nghị “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức ngày 1/11.

Quang cảnh Hội nghị.

Các đồng chí: Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương; Phùng Xuân Nhạ, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương dự và chủ trì Hội nghị.

Theo báo cáo tại Hội nghị, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW, hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện Nghị quyết; doanh nghiệp và người dân ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Một số lĩnh vực khoa học cơ bản như toán học, vật lý, công nghệ vệ tinh Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; một số trường đại học đạt trình độ tiên tiến thế giới ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ, khoa học máy tính… Một số sản phẩm sáng tạo, sáng chế đạt huy chương vàng và huy chương bạc sáng chế quốc tế iCAN22. Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII năm 2022, Việt Nam đứng thứ 48/132 nền kinh tế (năm 2021 đứng thứ 44/132), nằm trong top 50 và đứng thứ 2 trong nhóm 36 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, đứng thứ 10 trong số 17 nền kinh tế ở Đông Nam Á và châu Đại Dương.

Cùng với đó, KH&CN đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước, nhiều kết quả vượt mục tiêu đề ra, cụ thể: Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 40,1% vào tăng trưởng kinh tế; giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 45%; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 51,7%; giá trị giao dịch của thị trường KH&CN đạt 22%/năm; đã xây dựng được nhiều sản phẩm quốc gia mang thương hiệu Việt Nam.

Số lượng công bố KH&CN quốc tế của Việt Nam tăng liên tục. Năm 2020 số lượng đã tăng gấp bốn lần so với giai đoạn đầu, từ 4.510 bài lên 18.197 bài; đặc biệt tăng mạnh trong 2 năm vừa qua. Việt Nam đứng thứ 5 về tổng số công bố quốc tế trong khu vực ASEAN. Số lượng các sáng chế được bảo hộ tăng liên tục, năm 2015 tăng 15 lần so với giai đoạn 2006-2010, đến năm 2020 tăng gấp đôi so với giai đoạn 2011 - 2015; đến năm 2021 đã có 3.513 bằng độc quyền sáng chế/giải pháp hữu ích và 22.828 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.

Đại biểu phát biểu ý kiến tại Hội nghị.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn tồn tại một số hạn chế như: Việc triển khai các nội dung của Nghị quyết còn chậm; việc thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết còn chưa đồng bộ; cơ chế chính sách chưa theo kịp với sự phát triển của KH&CN và thực tiễn của xã hội; cơ chế tài chính còn nhiều bất cập; hành lang pháp lý cho hoạt động KH&CN chưa được hoàn thiện để huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội…

Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định: khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng chí Lại Xuân Môn nhấn mạnh, qua 10 năm thực hiện Nghị quyết 20- NQ/TW cần bổ sung văn bản của Đảng để tiếp tục phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Đồng thời, phải đồng bộ nhất quán với các chỉ thị, nghị quyết có liên quan đến phát triển KH&CN trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và triển khai đồng bộ với các nghị quyết, chiến lược của Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đồng chí Lại Xuân Môn cũng lưu ý cần phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, dự báo bối cảnh tình hình thế giới tác động đến sự phát triển của KH&CN. Qua đó, xác định yêu cầu đối với việc phát tiển KH&CN trong thời gian tới để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ KH&CN, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững đất nước./.