Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận cơ bản và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 35 năm qua để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn cho thời kỳ phát triển mới của đất nước.
1- Trên cơ sở nhận thức lý luận, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế đất nước, các ngành, lĩnh vực với những thành tựu to lớn sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Một số thị trường phát triển mạnh, vận hành tương đối thông suốt, như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường chứng khoán. Quy mô, phạm vi tự do hóa các loại thị trường ngày càng được mở rộng,... Các thành tố cơ bản của thị trường tài chính, như thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm cùng nhiều loại công cụ tài chính, giấy tờ có giá đã được hình thành tương đối hoàn chỉnh và đang được đưa vào vận hành, góp phần tạo điều kiện thu hút, tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thị trường tiền tệ phát triển với quy mô giao dịch ngày càng tăng, hàng hóa trên thị trường tiền tệ ngày càng đa dạng, hoạt động của thị trường góp phần thúc đẩy cơ chế điều hòa vốn ngắn hạn một cách linh hoạt trong phạm vi toàn hệ thống các ngân hàng, từ đó phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các loại thị trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới; kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại những thay đổi rất to lớn cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD(1). Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội xét trên phương diện quan hệ sở hữu, gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(2).
Đặc biệt, sau khi cơ bản khống chế được đại dịch COVID-19, từ quý IV-2021 nền kinh tế Việt Nam đã mở cửa trở lại và có những bước hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,59% so với năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm trước. Thặng dư cán cân thương mại 11,2 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước.
An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Đến tháng 4/2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu mẫu(3); hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô-tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.
Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
2- Từ những kết quả, thành tựu đạt được trong thực tiễn, có thể khái quát một số vấn đề lý luận và bài học kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc một số quan điểm lý luận:
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kiểu kinh tế thị trường mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, mà là nền kinh tế có sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc trên quan điểm khoa học những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được, bao gồm cả thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý...
- Về cấu trúc, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế tồn tại lâu dài, là đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Các thành phần kinh tế có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau trong chỉnh thể nền kinh tế: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”(4). Sự hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí khác nhau, như sự hiện đại, mức độ phù hợp với thông lệ quốc tế của thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách; sự hiện đại của quản trị quốc gia; sự đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới của hệ thống các loại thị trường, yếu tố thị trường trong nền kinh tế... Sự vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thể hiện sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế và ở việc xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong điều tiết, vận hành nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giá cả hàng hóa thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thừa nhận, được pháp luật bảo vệ. Giá cả các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục cũng từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ đa dạng, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng (về giá cả, chất lượng hàng hóa, vệ sinh, an toàn thực phẩm...), chú trọng các phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, hội nhập quốc tế trong thị trường hàng hóa, dịch vụ. Phát triển mạnh thị trường khoa học - công nghệ.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ, bổ sung, bù đắp thiếu hụt cho nhau trong vận hành nền kinh tế. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực thi pháp luật.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển của con người: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(5).
- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường thể hiện ở các điểm:
Thứ nhất, mục tiêu phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu này cũng thể hiện lợi ích của nhân dân, vì nhân dân.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có sự tham gia, giám sát của nhân dân và xã hội, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ ba, nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa bảo đảm động lực, khuyến khích cạnh tranh phát triển, vừa bảo đảm giải quyết tốt các vấn đề xã hội: Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ tư, gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những bài học kinh nghiệm:
Trên cơ sở thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị đối với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của các nước trên thế giới; tổng kết những mô hình mới, cách làm hay, điển hình về phát triển kinh tế ở trong nước nhằm nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, kịp thời chỉ đạo, điều hành các hoạt động trong nền kinh tế.
Hai là, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị, trong toàn dân về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là một trong ba trụ cột phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Ba là, đề cao vai trò, lợi ích của nhân dân, vì nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu xây dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện các quan điểm, chính sách phát triển kinh tế. Gắn kết chính sách kinh tế với chính sách xã hội, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế của nhân dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, pháp luật về kinh tế cũng như trong phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, bám sát thực tiễn của nền kinh tế đất nước và thế giới; đồng thời, nắm bắt, dự báo chính xác, kịp thời những diễn biến mới của khu vực, thế giới để xác định các mục tiêu, lộ trình, bước đi, các quan điểm, chính sách phù hợp trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết hài hòa, cân bằng, hợp lý các mối quan hệ: giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội...
Năm là, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường, giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Sáu là, chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó tập trung lãnh đạo Nhà nước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Bảy là, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, gắn kết nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực, thế giới; phát huy tối đa nội lực, tính tự chủ của nền kinh tế, tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước.
3- Trong thời gian tới, dự báo bối cảnh quốc tế tiếp tục biến động khó lường, nảy sinh nhiều vấn đề mới, tạo ra cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển nhanh, sâu rộng; tình hình thế giới, khu vực thay đổi nhanh, có nhiều đột biến, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - U-crai-na; sự tác động toàn diện, mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu; sự sụt giảm của thương mại và đầu tư quốc tế; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; vấn đề an ninh năng lượng, an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, già hóa dân số, ô nhiễm môi trường... ngày càng phức tạp, trước mắt là hậu quả của đại dịch COVID-19.
Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2025, phấn đấu: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Do vậy, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng, là một trong những trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, cần phải được quán triệt sâu sắc cả về nhận thức và hành động.
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, thông qua kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa những sai phạm, đồng thời bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng. Hoàn thiện việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Thứ hai, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như các nội dung về tiêu chí hiện đại, hội nhập quốc tế; về cơ chế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; về bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế; về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội... để từ đó thống nhất cách hiểu và thực hiện.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về các nội dung, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, cụ thể hóa quan điểm, nội dung, bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Chú trọng tổng kết thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế để bổ sung, làm rõ những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, làm rõ những mô hình mới, kinh nghiệm hay trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những “điểm nghẽn” chính là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn chồng chéo. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt là tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành, nghề mới ra đời, cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Vì vậy, cần xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.
Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp giá do Nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với kết cấu hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy đầy đủ vai trò của thị trường trong phân bổ các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, tập trung vào nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đẩy mạnh cải cách hành chính; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến tạo phát triển. Tạo điều kiện và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên, phản biện, góp ý luật pháp, chính sách của Nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật.
Thứ năm, tiếp tục thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công - tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Tích hợp chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do. Sử dụng và phát huy có hiệu quả các yếu tố do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, biến thành động lực thúc đẩy đổi mới và nguồn lực vật chất cho sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới./.
NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
-------------------------
(1) Tổng cục Thống kê: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/bai-top/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2022/
(2) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31.
(3) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, ngày 21/4/2022.
(4) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 25 - 26.
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 25 - 27.