Nhiều dư địa cho xuất khẩu nông sản, thực phẩm Việt sang Hungary
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary còn thấp, nhưng đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận trong thời gian qua thể hiện qua một số mặt hàng nông sản, thực phẩm xuất khẩu chính.
Các số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary đã có sự tăng trưởng ấn tượng.
Theo số liệu thống kê của Hungary, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary năm 2016 đạt hơn 124 triệu USD, đến năm 2020 đã tăng lên 1 tỷ USD (tăng gấp 8 lần), từ tháng 1-10/2021 đạt gần 843 triệu USD (tăng 5%).
Kết quả khả quan trên chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhóm hàng linh kiện điện tử Việt Nam xuất khẩu sang Hungary trong những năm qua.
Đối với nhóm hàng nông sản, thực phẩm, mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary còn thấp, nhưng đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận trong thời gian qua thể hiện qua một số mặt hàng nông sản, thực phẩm xuất khẩu chính.
Đối với hàng càphê chế biến (chiết xuất, tinh chất, cô đặc), nếu như năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary chỉ đạt 115.000 USD, đến năm 2020 đã tăng lên xấp xỉ 4,4 triệu USD, gấp 38 lần so năm 2016; riêng từ tháng 1-10/2021 đạt hơn 7 triệu USD, tăng 85,6% so cùng kỳ năm trước. Hiện thị phần càphê chế biến Việt Nam chiếm khoảng 12,6% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Hungary.
Hiện đối thủ cạnh tranh chính là Tây Ban Nha (22%), Pháp (14%), Đức (8,5%). Nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng này của Hungary hằng năm khoảng từ 30-50 triệu USD.
Đối với mặt hàng hạt điều, nếu như năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary chỉ đạt 1,88 triệu USD, đến năm 2020 đã tăng lên xấp xỉ 2,4 triệu USD, tăng ở mức 27,7% so năm 2016 và 3,8% so năm 2019. Riêng từ tháng 1-10/2021 đạt hơn 2 triệu USD, tăng 11,6% so cùng kỳ năm trước. Đây là mặt hàng nông sản của Việt Nam chiếm thị phần lớn nhất (gần 40%) trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của Hungary.
Đối thủ cạnh tranh chính là Đức (36%) và Hà Lan (12%). Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Hungary hằng năm khoảng 6 triệu USD.
[Nắm bắt quy định gia tăng xuất khẩu sang thị trường EU]
Về mặt hàng gạo, nếu như năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary chỉ đạt 43.000 USD, đến năm 2020 đã tăng lên 198.000 USD, tăng gấp 4,6 lần so năm 2016 và 135,7% so năm 2019. Riêng từ tháng 1-10/2021 đạt 0,7 triệu USD (767 tấn), tăng gấp trên 9 lần so cùng kỳ năm trước. Thị phần gạo của Việt Nam chiếm khoảng 0,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Hungary. Đối thủ cạnh tranh chính là Italy (32%), Slovakia (24%), Ba Lan (12%). Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Hungary hằng năm khoảng 40 triệu USD.
Đối với hạt tiêu, xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary năm 2020 đạt 335.000 USD, tăng 85% so cùng kỳ năm 2019. Riêng từ tháng 1-10/2021 đạt 1,075 triệu USD, tăng 296,7% so cùng kỳ năm 2020. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam chiếm khoảng 18,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Hungary. Đối thủ cạnh tranh chính là Hà Lan (hơn 29%), Áo (16,7%), Đức (9,5%). Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Hungary hằng năm khoảng trên dưới 5 triệu USD.
Về rau quả chế biến, nếu như năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary chỉ đạt 30.000 USD, đến năm 2020 đã tăng lên xấp xỉ 245.000 USD, tăng trên 8 lần so năm 2016 và 181,6% so năm 2019. Riêng từ tháng 1-10/2021 đạt 0,719 triệu USD, tăng 193,5% so cùng kỳ năm trước. Thị phần của Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của Hungary. Đối thủ cạnh tranh chính là Đức (22%), Ba Lan (16%), Hà Lan (11%). Nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng này của Hungary hằng năm khoảng 300 triệu USD.
Đối với sản phẩm mỳ chế biến, nếu như năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam sang Hungary chỉ đạt 680.000 USD, đến năm 2020 đã tăng lên 1,49 triệu USD, tăng 119,1% so năm 2016 và 17% so năm 2019. Riêng từ tháng 1-10/2021 đạt 1,4 triệu USD, tăng 9% so cùng kỳ năm trước. Thị phần của Việt Nam chiếm tỷ trọng 20,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của Hungary. Đối thủ cạnh tranh chính là Ba Lan (15,6%), Slovakia (14,6%), Đức (13,4%)... Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của Hungary hằng năm khoảng từ 7-8 triệu USD.
Do cơ cấu thị trường nhập khẩu của Hungary từ trước đến nay chủ yếu vẫn là thị trường EU. Vì vậy, về cơ bản các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam tại thị trường Hungary chủ yếu là các nước EU như Đức, Hà Lan, Áo, Italy, Ba Lan, Slovakia, Tây Ban Nha, Pháp…
Mặc dù gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ những quốc gia này, nhưng một số mặt hàng Việt Nam vẫn có lợi thế tốt như hạt điều, hạt tiêu, càphê. Với diễn biến hiện nay, các mặt hàng này vẫn duy trì được sự tăng trưởng xuất khẩu tốt sang thị trường Hungary trong thời gian tới.
Mặc dù không phải là thị trường lớn trong khu vực nhưng nhu cầu nhập khẩu của Hungary vẫn tăng hằng năm, đạt mức trên dưới 100 tỷ USD/năm. Trong đó, nhập khẩu từ Việt Nam tăng mạnh trong những năm gần đây.
Việc Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) đã có hiệu lực tiếp tục mở ra cơ hội to lớn cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển thương mại hàng hóa và đầu tư tại thị trường EU nói chung và Hungary nói riêng trong thời gian tới./.