Chiến thắng Điện Biên Phủ - thắng lợi của sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh
Ban Biên tập trân trọng giới thiệu nội dung bài viết "Chiến thắng Điện Biên Phủ - thắng lợi của sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh" của đồng chí Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024).
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao chói lọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954, “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”(1). Cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giải phóng hoàn toàn miền Bắc nước ta, mở ra chặng đường phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.
KẾT TINH SỨC MẠNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kết tinh sức mạnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc, tiếp nối qua hàng ngàn năm lịch sử và dưới sự lãnh đạo của Đảng được phát huy, tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh đó là nhân tố cơ bản để làm nên chiến thắng, được thể hiện trên các vấn đề lớn sau đây:
Một là, sức mạnh của đường lối, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc.
Trải qua quá trình đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh, nhân dân Việt Nam mới giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc với thắng lợi Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945; bất chấp nguyện vọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng với các nước dân chủ, sự nhân nhượng có nguyên tắc của nhân dân ta, thực dân Pháp ngày càng lấn tới, nhất định cướp nước ta một lần nữa. Đứng trước âm mưu và hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân ta chỉ còn con đường duy nhất để bảo vệ thành quả cách mạng là nhất tề đứng lên kháng chiến. Đây là một cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là “một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình” của dân tộc ta.
Với trách nhiệm cao cả trước dân tộc, đối diện với họa xâm lăng của thực dân hiếu chiến Pháp, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh là chính và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Đường lối đó được thể hiện trong Chỉ thị “Kháng chiến - kiến quốc” của Ban Thường vụ Trung ương (ban hành ngày 25/11/1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ban hành ngày 12/12/1946) và Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (công bố ngày 19/12/1946); sau này được đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cụ thể hóa trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (xuất bản tháng 9/1947), được khái quát thành hai nhiệm vụ chiến lược “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự vận dụng tài tình và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh giặc, trong đó, có lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân mang bản chất giai cấp công nhân, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân làm nòng cốt. Cả dân tộc Việt Nam “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc” đứng dậy chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay với ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Phương châm tác chiến đi từ chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Có thể nói, đây là đường lối chiến tranh nhân dân tài tình, sáng tạo được kế thừa và phát triển cao trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, với lực lượng nền tảng là giai cấp công, nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thực hiện đường lối của Đảng, nhân dân ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng hậu phương, căn cứ địa, nhất là căn cứ địa Việt Bắc; vừa chiến đấu vừa bồi dưỡng, phát triển lực lượng về mọi mặt, xây dựng phát triển quân đội nhân dân, đẩy mạnh công tác chỉnh huấn, chỉnh quân và tác chiến; phát triển dân quân du kích, dân quân tự vệ, chiến tranh du kích(2); chú trọng xây dựng Đảng(3), xây dựng chính quyền cách mạng; mở rộng tuyên truyền giáo dục chính trị và tuyên truyền những chiến thắng của quân và dân ta; phát động phong trào quần chúng, xây dựng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất; chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân; tích cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí(4); chống địch phá hoại, chống tuyên truyền lừa bịp của địch, phá âm mưu của địch xây dựng ngụy quyền và ngụy quân; phát triển công nghiệp phục vụ cho quốc phòng và dân sinh, sản xuất vũ khí, đạn dược, thuốc chữa bệnh, hóa chất, cơ khí...; đẩy mạnh Thi đua ái quốc, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, với những phong trào tiêu biểu như “Bình dân học vụ”(5), “Hũ gạo cứu đói”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”(6)... Trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, chúng ta cũng đạt được những thành tích rất đáng phấn khởi trong việc phát triển nền văn hóa mới trên nguyên tắc “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”(7). Qua đó, đã đào tạo con người mới và cán bộ mới cho kháng chiến, kiến quốc. Xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc, chính sách đối với tôn giáo, chính sách đối với vùng tạm bị chiếm, chính sách đối với ngoại kiều, chính sách đối ngoại, xúc tiến việc giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, cùng với nhiều cải cách trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội…
Tháng 2/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đã tổng kết một bước quan trọng lý luận cách mạng Việt Nam, xác định đường lối tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ là đúng đắn; đề ra khẩu hiệu chính của cách mạng là “tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại can thiệp Mỹ, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới”(8). Chủ trương của Đại hội tiếp tục được cụ thể hóa qua các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II(9)... cùng với quyết tâm “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3/1951) đã xác định “Do kháng chiến trường kỳ và gian khổ, ta phải ra sức mở mang kinh tế tài chính để bồi dưỡng sức dân và cung cấp cho nhu cầu quân đội...”(10), nhân dân ta cũng ra sức tăng gia sản xuất và tiết kiệm để bảo đảm cung cấp những nguồn lực cần thiết cho đời sống và cho kháng chiến. Trong bối cảnh nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, đại đa số dân cư là nông dân, Đảng ta đã coi trọng vấn đề nông dân, xác định đây là nền tảng để xây dựng chính quyền cách mạng, các vùng an toàn khu, căn cứ địa cách mạng để phát động chiến tranh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân… Đảng thực hiện chủ trương đem lại ruộng đất cho dân cày với 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất từ tháng 4/1953 - 7/1954, qua đó, động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do, mới giải phóng, vùng tạm bị địch chiếm tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và sự nghiệp cách mạng, góp phần xây dựng hậu phương, căn cứ địa của kháng chiến ngày càng vững mạnh để chiến thắng trong chiến tranh và chuẩn bị cho xây dựng đất nước về lâu dài.
Thực hiện đường lối đúng đắn sáng tạo của Đảng, quân và dân không ngừng tăng cường thế và lực cho cuộc kháng chiến, từng bước làm thất bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, tiến lên giành quyền chủ động chiến lược là cơ sở quan trọng để cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ quân sự, phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch, ra Nghị quyết lịch sử thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, quyết tâm phá kế hoạch Nava, buộc thực dân Pháp từ tham vọng giành lại quyền chủ động lại tiếp tục lún sâu vào bị động, xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm hòng tạo trận giao chiến chiến lược ngoài kế hoạch. Trước tình thế mới, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị nghe Tổng Quân ủy báo cáo về phương án tác chiến mùa xuân năm 1954, xác định phương hướng chiến dịch, phương án tác chiến “trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay,… Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn”(11); trong đó, nêu rõ các công việc quan trọng cần chuẩn bị: về binh lực và thời gian tác chiến; về nhu cầu nhân lực, vật lực, phục vụ ở mặt trận; về lương thực phải huy động và đạn dược chuyển ra hỏa tuyến; về làm đường, sửa chữa các công trình giao thông và kế hoạch vận chuyển. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy và thành lập Bộ Chỉ huy, Đảng ủy mặt trận; Chính phủ thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư khen ngợi, động viên, khích lệ quân và dân Tây Bắc, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến mặt trận Điện Biên Phủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả hậu phương tập trung toàn lực chi viện cho chiến dịch. Đường lối và sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đã mở đường cho dân tộc ta đi đến những thắng lợi lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Hai là, sức mạnh của nghệ thuật quân sự tài tình, sáng tạo, cùng với sự trưởng thành và chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân đội ta.
Sau những năm tháng chiến tranh xâm lược kéo dài và bị sa lầy tại Việt Nam, giới cầm quyền Pháp đã hết hy vọng giành chiến thắng, nhưng vẫn tin còn đủ thời gian và điều kiện để tìm một kết thúc có lợi. Ngày 24/7/1953, Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua kế hoạch quân sự mới của Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, “chúng đề ra nhiệm vụ kiên quyết tập trung lực lượng cơ động để tấn công và tiêu diệt chủ lực của ta”(12) và thực tế đã tập trung được 44 tiểu đoàn cơ động (trong tổng số 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương) ở đồng bằng Bắc Bộ(13) với hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một thắng lợi quyết định để buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng và kết thúc chiến tranh trong danh dự. Sau khi phân tích và đánh giá đúng tình hình chiến sự, giữa tháng 11/1953, Trung ương Đảng chủ trương tập trung lực lượng, mở những cuộc tiến công chiến lược nhằm vào những nơi mà lực lượng của địch tương đối yếu, buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng, phá âm mưu tập trung binh lực của địch. Dưới sự chỉ đạo, điều động binh lực mưu trí của Đảng, của Tổng quân ủy, một bộ phận bộ đội ta thực hiện kế hoạch tiến quân lên Tây Bắc với một khí thế rất mạnh, buộc Nava phải cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ để đối phó. Từ chỗ không có trong kế hoạch, Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Nava, có vị trí chiến lược quan trọng, được xác định làm bàn đạp để chiếm lại Tây Bắc, uy hiếp hậu phương Việt Bắc của ta. Bộ Chính trị đã phân tích thấu đáo những điểm mạnh, ưu thế cũng như những nhược điểm của tập đoàn cứ điểm (trong đó cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế phải dựa vào đường không), đánh giá đúng tình hình của ta trên các mặt từ lực lượng vũ trang, trang bị kỹ thuật, kinh nghiệm chiến đấu đến đường giao thông, chi viện sức người, sức của cho chiến dịch…, trên cơ sở đó quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược, tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta lên mặt trận, hạ quyết tâm phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm để tạo bước ngoặt mới trong chiến tranh.
Để tạo thuận lợi cho trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường với 5 đòn chiến lược(14), cùng những trận đánh khác trên khắp các chiến trường sau lưng địch; qua đó buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng, không thể tập trung quân cho Điện Biên Phủ. Trước khi ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò Đại tướng Võ Nguyên Giáp(15) “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”(16). Thời điểm ban đầu, Tổng Quân ủy xây dựng kế hoạch tác chiến dự kiến phương châm chiến dịch có thể là “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Tuy nhiên, từ nghiên cứu, đánh giá đúng đắn và toàn diện về tình hình thực tế, so sánh thế trận, tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cân nhắc kỹ lưỡng và đưa ra quyết định vận dụng phương châm tác chiến phù hợp, chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, nhằm chuẩn bị kỹ nhất cho một trận chắc thắng theo chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thay đổi phương châm tác chiến, ta gặp không ít khó khăn như: thời gian tác chiến dài hơn, có những việc phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí hệ thống hoả lực của chiến dịch(17). Thực hiện chủ trương trên, quân ta từng bước hình thành thế trận “vây, lấn, tán, dũi” với hệ thống giao thông hào dày đặc vây siết địch theo từng cứ điểm, từng phân khu; bằng cách này ta đã phá vỡ cấu trúc cơ bản của tập đoàn cứ điểm, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch.
Khi thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương, gồm nhiều trung tâm đề kháng phức tạp với binh lực, hỏa lực mạnh và được tổ chức phòng ngự ở trình độ cao(18), Nava và các chỉ huy Pháp - Mỹ coi đây là một pháo đài không thể công phá. Tuy nhiên, đối phương đã không thấy hết được sức mạnh của nghệ thuật quân sự tài tình, sáng tạo, cùng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhân dân và của cả dân tộc. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, được rèn luyện trong chiến đấu (trong điều kiện địch rất mạnh, ta rất yếu), có truyền thống anh dũng, kiên cường, với chất lượng ngày càng được nâng cao qua nhiều chiến dịch: Việt Bắc (1947); Biên giới Thu Đông (1950); Trần Hưng Đạo (1950-1951); Hoàng Hoa Thám (1951); Quang Trung (1951); Hòa Bình (1951-1952); Tây Bắc (1952); Thượng Lào (1953)... và trong chỉnh huấn, chỉnh quân; với sự phát triển vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy; sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật và bảo đảm hậu cần; tích lũy những kinh nghiệm nhất định về đánh công kiên, bước đầu huấn luyện để đánh tập đoàn cứ điểm, Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn toàn có khả năng khắc phục khó khăn, giải quyết những vấn đề cần thiết bảo đảm cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Trên các chiến trường toàn quốc, đặc biệt tại chiến trường Điện Biên Phủ, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, với 3 đợt tiến công, bộ đội ta mưu trí, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quyết chiến - quyết thắng, kiên cường, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nhiều tấm gương tiêu biểu như: Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Trần Can, Tạ Quốc Luật, Đặng Đình Hồ, Hoàng Khắc Dược và nhiều anh hùng, liệt sĩ, chiến sĩ khác tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Ba là, sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh của Đảng, với một bộ chỉ huy thao lược, tài ba và những cá nhân, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu, cùng với quân và dân ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc đã nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết rộng rãi, lao động quên mình, chiến đấu dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ, đặt lợi ích của nhân dân, của cách mạng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do. Lời hiệu triệu yêu nước, bảo vệ độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, khẩu hiệu “Kháng chiến nhất định thắng lợi. Kiến quốc nhất định thành công” của Đảng đã tác động sâu sắc đến lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tưởng lớn của sức mạnh đại đoàn kết. Theo yêu cầu của kháng chiến, Đảng ta đã động viên toàn dân, đoàn kết các giai cấp cách mạng, các dân tộc, các phần tử yêu nước(19), củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam sau hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt), thu hút tuyệt đại bộ phận nhân dân vào lực lượng chính trị của cuộc kháng chiến là Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông rộng lớn, vững chắc chưa từng có, là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của toàn dân tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, cả nước cùng ra trận với khí thế và tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Nhân dân ta vừa “thi đua giết giặc lập công”, vừa “thi đua tăng gia sản xuất”; vừa tích cực, chủ động đánh phá, thủ tiêu chính quyền địch, vừa ra sức củng cố, phát triển, phát huy hiệu lực của chính quyền cách mạng, vừa đấu tranh phá hoại kinh tế của địch, vừa ra sức bảo vệ, phát triển nền tảng kinh tế kháng chiến, kinh tế dân chủ nhân dân. Lực lượng Công an tích cực bảo vệ dân công và các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo vệ kho tàng, chống gián điệp, bảo vệ nội bộ, bảo vệ các cơ quan đầu não kháng chiến tuyệt đối an toàn. Cả hậu phương rộng lớn, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng ở Tây Bắc, đến vùng du kích và căn cứ du kích đồng bằng Bắc Bộ đã tập trung huy động sức người, sức của cho chiến dịch. Riêng đồng bào các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III và IV đã đóng góp hơn 260.000 dân công, 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện thô sơ, vận chuyển ra mặt trận hơn 2 vạn tấn lương thực, cùng hàng triệu ngày công làm công tác vận chuyển vũ khí, trang bị, sửa chữa cầu đường, xẻ núi bạt đèo cho bộ đội ta kéo pháo vào trận địa, xây dựng kho lán, tham gia tải thương,...(20).
Trên toàn quốc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, quân và dân ta ở khắp các tỉnh miền Đông và miền Tây của Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Liên khu 5, Bình - Trị - Thiên, Đồng bằng Bắc Bộ, Tả ngạn, Bắc Tây Nguyên... đã đẩy mạnh tiến công về quân sự, phong trào chiến tranh du kích, phá tề trừ gian và các cuộc đấu tranh chính trị, qua đó, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai. Các cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị của nhân dân ở các đô thị đòi chồng con, chống giặc bắt lính và đòi hòa bình liên tiếp nổ ra. Ở Nam Bộ, hoạt động địch vận cũng đạt kết quả lớn với hàng vạn binh lính ngụy bỏ đồn bốt trở về với gia đình, ngụy quân, ngụy quyền nhiều nơi tan rã. Chưa bao giờ đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang được kết hợp nhịp nhàng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ, gắn kết chặt chẽ như vậy.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, xác định cuộc kháng chiến của nhân dân ta không chỉ giành tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc mình mà còn vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình thế giới. Tháng 12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế”(21). Để giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nói chung, toàn dân tộc đã phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực rất cao và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, cùng với những thời cơ thuận lợi của thời đại. Ngoài việc xây dựng liên minh chiến đấu trên chiến trường Đông Dương giữa Việt Nam với Lào và Campuchia chống kẻ thù chung trên tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính “giúp bạn là mình tự giúp mình”; sau chiến thắng Biên giới năm 1950, ta thoát khỏi thế bị bao vây, có điều kiện tiếp nhận sự chi viện về vật chất và tinh thần của anh em bạn bè, đặc biệt là của Trung Quốc, Liên Xô. Đồng thời, ta tranh thủ sự ủng hộ quý báu của nhân dân tiến bộ Pháp, nhân dân các dân tộc bị áp bức ở châu Á, châu Phi, Mỹ La tinh và các nước dân chủ, các phong trào độc lập - dân chủ trên thế giới, tạo nên mặt trận đoàn kết quốc tế, cùng với mặt trận đoàn kết trong nước làm nên sức mạnh tổng hợp to lớn góp phần giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.
Chiến thắng đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc Chính phủ Pháp ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 21/7/1954. Đây cũng là thắng lợi to lớn của nhân loại tiến bộ và của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, giành độc lập - tự do, mở đầu cho sự tan rã không thể cứu vãn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, sức mạnh Việt Nam tiếp tục được tỏa sáng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược với Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng; bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc của Tổ quốc và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau gần 40 năm đổi mới, như Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(22).
Hiện nay, sức mạnh của nước ta là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, được tạo nên bởi đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước và sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; vị trí địa chính trị, địa kinh tế của đất nước; các nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; tiềm lực về kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ và quy mô, chất lượng, độ bền vững của dân số quốc gia; truyền thống yêu nước cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; vị thế chính trị, ngoại giao và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tinh thần Chiến thắng Điện Biên Phủ, tiếp tục khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần quan tâm thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc và luôn luôn giữ vững hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế để xây dựng niềm tin vững chắc trong nhân dân: (1) Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. (2) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. (3) Kiên định đường lối đổi mới của Đảng. (4) Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, về văn hóa - sức mạnh con người Việt Nam, về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là những tư duy, quan điểm mới được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” và Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII) và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận khác của Đảng về những vấn đề trên.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh toàn diện; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tạo thế “sâu rễ, bền gốc”. Chú trọng xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng, hệ thống chính trị và trong nhân dân, trong đó vai trò hạt nhân của đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Củng cố vững chắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, tạo nền tảng xây dựng, tăng cường “thế trận lòng dân” gắn với xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân”, “thế trận an ninh nhân” và “thế trận biên phòng toàn dân” vững chắc, trong đó chú trọng tuyến biển, đảo, những địa bàn, lĩnh vực nhạy cảm, trọng yếu.
Thứ tư, kiên trì, thực hiện nghiêm, hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân trong bối cảnh mới xuất hiện nhiều loại vũ khí, trang bị quân sự hiện đại, hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, phương thức tiến hành mới. Theo đó phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh; xây dựng sức mạnh toàn diện, vững chắc ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển sang thế trận chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; cùng với đó quan tâm xây dựng các lực lượng: dân quân tự vệ, kiểm ngư, dân quân biển, lực lượng phòng thủ dân sự, lực lượng 35, lực lượng tuyên giáo, dân vận, báo chí, truyền thông, mặt trận các cấp… bảo đảm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu trong mọi tình huống.
Thứ năm, giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, dựa vào nội lực là chính, xây dựng tiềm lực về mọi mặt của đất nước, của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường chuyển đổi số; quan tâm xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại trở thành mũi nhọn công nghiệp quốc gia. Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số; tích cực quảng bá văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo, khu kinh tế, khu công nghiệp trọng điểm… tạo sức mạnh tổng hợp giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ sáu, nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược, toàn diện, đề xuất các chủ trương, đối sách, giải pháp sát, đúng, kịp thời, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vững thế chủ động chiến lược, chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động xâm hại an ninh quốc gia, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ bảy, kiên trì, kiên định và thực hiện nhất quán đường lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, bình đẳng, hợp tác và phát triển, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết, trước hết, là tiêu chuẩn cao nhất trong hành xử quốc tế và kiên trì, nhất quán thực hiện chính sách “4 không”. Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn phương châm giữ “trong ấm, ngoài êm”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cân bằng, hài hòa lợi ích trong quan hệ với các nước. Tiếp tục đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực, tăng cường đan xen lợi ích và tin cậy chính trị. Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc huy động nguồn lực quốc tế, tạo vành đai an ninh, phòng thủ từ sớm, từ xa, từ bên ngoài lãnh thổ và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia.
Thứ tám, tăng cường tổng kết lý luận và thực tiễn, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những bài học về nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, cũng như tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam và thế giới để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo hướng tăng tính chủ động, khả thi và thích ứng linh hoạt, hiệu quả trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
(Theo Tạp chí Tuyên giáo)
-----------------------------------------------------------------------------
(1) Lê Duẩn: Dưới cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự Thật, H, 1970, tr 90.
(2) Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng dân quân du kích, dân quân tự vệ phát triển mạnh mẽ, rộng lớn trên khắp thôn, bản, làng, xã, phố phường với số lượng hàng triệu, biểu hiện thực sự “mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài” trong cuộc kháng chiến.
(3) Tiếp tục chỉnh Đảng, chỉnh huấn cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng, chấn chỉnh tổ chức, tư tưởng, tác phong của Đảng để thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ và công tác quan trọng.
(4) Năm 1950, ở Thủ đô kháng chiến, Tòa án binh tối cao đã mở phiên tòa đặc biệt, xét xử nghiêm vụ án Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và những người liên quan can tội “Biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”.
(5) Với phong trào Bình dân học vụ, tới năm 1948 đã có 6 triệu người và năm 1952 có 10 triệu người biết viết.
(6) Chỉ tính riêng Liên khu V trở ra đã có trên 500.000 thanh niên ghi tên tòng quân. Hàng chục vạn đồng bào hăng hái lên đường đi dân quân phục vụ tiền tuyến. Nhân dân còn đóng góp tiền của, thóc, gạo cho kháng chiến.
(7) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2001, t. 12, tr 36, 511.
(8) Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2018, t. 1 (1930-1954), quyển 2, tr. 322 - 323.
(9) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II lần thứ nhất (13-16/3/1951), lần thứ hai (27/9-5/10/1951), lần thứ ba (22-28/4/1952), lần thứ tư (25-30/1/1953), lần thứ năm (tháng 11/1953).
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 594.
(12) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1964, tr. 182.
(13) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Sách Lịch sử lớp 12, Nxb. Giáo dục Việt Nam, H, 2015.
(14) (1) Tiến công Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc; (2) Phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công vào Trung Lào; (3) Tiến sâu xuống Hạ Lào và Đông Campuchia; (4) Tiến công trên mặt trận Bắc Tây Nguyên; (5) Phối hợp tiến công phòng tuyến địch tại Thượng Lào.
(15) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận.
(16) Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 2018, tr 900.
(17) Như việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa, nay lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao để tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ…
(18) Với hơn 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới.
(19) Là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được những nhân sĩ, trí thức của chế độ cũ như: Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Toại, Phan Anh, Vũ Đình Hòe...; cùng với những nhân tài, trí thức, nhà khoa học Việt kiều yêu nước: Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Giáo sư Tôn Thất Tùng, Giáo sư Lương Đình Của, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch... cống hiến cho đại nghĩa của dân tộc, phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc dưới ngọn cờ của Đảng.
(20) (21) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 1996, tr 202, 202.
(22) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr 25.