Xuất siêu nông, lâm, thuỷ sản trong 10 tháng đạt hơn 15,2 tỷ USD, tăng hơn 62%

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy cán cân thương mại ngành nông, lâm, thuỷ sản Việt Nam 10 tháng năm 2024 ước đạt thặng dư 15,21 tỷ USD, tăng 62,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 10 tháng năm 2024, nhóm nông sản thặng dư 4,67 tỷ USD, tăng 4,2 lần. (Ảnh: Vietnam+)

Theo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả ba nhóm hàng lâm sản, thủy sản và nông sản đều có cán cân thương mại 10 tháng năm 2024 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 11,75 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023; nhóm thủy sản thặng dư 6,21 tỷ USD, tăng 17,2% và nhóm nông sản thặng dư 4,67 tỷ USD, tăng 4,2 lần.

Trong khi đó, cán cân thương mại 3 nhóm hàng ở trạng thái thâm hụt gồm: Nhóm đầu vào sản xuất thâm hụt 4,75 tỷ USD; sản phẩm chăn nuôi thâm hụt 2,64 tỷ USD và muối thâm hụt 24,6 triệu USD.

Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 10 năm 2024 của Việt Nam ước đạt 5,91 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản 10 tháng năm 2024 đạt 51,74 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong 10 tháng, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 27,38 tỷ USD, tăng 25,6%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 423,5 triệu USD, tăng 2,7%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 14,05 tỷ USD, tăng 19,9%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,56 tỷ USD, giảm 5,7%; giá trị xuất khẩu muối đạt 4,6 triệu USD, giảm 0,2%.

Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam với thị phần chiếm 48,2%. 2 thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,5% và 11,5%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ chiếm 1,4-1,8%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam 10 tháng năm 2024 sang khu vực châu Á tăng 17,2%; châu Mỹ tăng 24,7%; châu Âu tăng 34,1%; châu Phi tăng 2% và châu Đại Dương tăng 14,5%.

Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kỳ chiếm 21,6%, Trung Quốc 21,5%, và Nhật Bản 6,5%. Đây là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam 10 tháng năm 2024 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 25,9%, Trung Quốc tăng 11,4%, và Nhật Bản tăng 5,9%.

Giá trị xuất khẩu thủy sản trong 10 tháng năm 2024 đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12%. (Ảnh: TTXVN)

Về kim ngạch nhập khẩu nông, lâm, tổng kim ngạch nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản 10 tháng năm 2024 đạt 36,53 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 22,71 tỷ USD, tăng 9,8%; giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 3,06 tỷ USD, tăng 6,6%; giá trị nhập khẩu thuỷ sản đạt 2,12 tỷ USD, giảm 1%; giá trị nhập khẩu lâm sản đạt 2,31 tỷ USD, tăng 25,4%; giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 6,3 tỷ USD, tăng 3,6%; giá trị nhập khẩu muối đạt 29,2 triệu USD, giảm 21,1%.

Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 28,8% và 24,1%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam 10 tháng năm 2024 từ khu vực châu Á tăng 11,1%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Âu tăng 31,9%; châu Đại Dương giảm 35,5%; và châu Phi giảm 6,5%.

Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 28,8% và 24,1%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam 10 tháng năm 2024 từ khu vực châu Á tăng 11,1%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Âu tăng 31,9%; châu Đại Dương giảm 35,5% và châu Phi giảm 6,5%.

Xét theo thị trường, Trung Quốc, Brazil và Hoa Kỳ, là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản lớn nhất cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 9,6%, 8,0%, và 7,7%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam 10 tháng năm 2024 từ thị trường Trung Quốc tăng 28,3%, Brazil tăng 8%, và Hoa Kỳ tăng 5,8%./.