Sẵn sàng với ‘sân chơi’ CBAM trong cuộc đua Xanh hóa nền kinh tế

Sân chơi CBAM định hình từ tháng 10 tới với “luật chơi” không thể đảo ngược, doanh nghiệp Việt buộc phải vào cuộc đua Xanh trong bối cảnh Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của EU trong ASEAN.

Doanh nghiệp đẩy mạnh các giải pháp tiết kiệm năng lượng, hợp lý hóa các quy trình sản xuất. (Ảnh: Đức Duy/Vietnam+)
Việt Nam sẽ vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon vào năm 2028. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Có thể khẳng định Cơ chế CBAM không phải là điều quá mới mẻ, nó là một phần thuộc Thỏa thuận Xanh châu Âu (European Green Deal – EGD) được khởi động năm 2019, từ trước khi bùng phát đại dịch COVID-19, nhằm giải quyết các thách thức liên quan đến khí hậu và môi trường.

Với Việt Nam, cách đây hơn 10 năm, Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã được ban hành nhằm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã được quan tâm, chú trọng hơn. Có tới 6 Nghị quyết tiếp theo đã được ban hành, hoàn thiện thêm một bước đáng kể về thể chế, chính sách với những tư duy mới, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng của thời đại.

Tuy vậy, bối cảnh thế giới và trong nước đã và đang có nhiều thay đổi, đòi hỏi sự thích ứng mới của cả khâu ban hành thể chế, chính sách và khâu nhận thức, hành động của doanh nghiệp.

Dĩ bất biến, ứng vạn biến

Trong bối cảnh sân chơi toàn cầu đã biến chuyển, với các doanh nghiệp Việt có định hướng xuất khẩu, nguy cơ hiện hữu là khó khăn trong xuất khẩu vào thị trường EU. Đây không chỉ là thách thức đối với những doanh nghiệp chưa từng xuất khẩu sang EU mà còn là thách thức với cả những doanh nghiệp từng có kinh nghiệm tại thị trường này, bởi vì các tiêu chuẩn, giấy chứng nhận vốn đã quen thuộc đang thay đổi, bổ sung theo hướng yêu cầu cao hơn.
 
Không thể không nhìn thẳng vào sự thật là hiểu biết của doanh nghiệp Việt Nam về các tiêu chuẩn Xanh của EU vẫn còn khá hạn chế. Theo một khảo sát của Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) năm 2022, tỷ lệ doanh nghiệp được khảo sát nắm rõ nội dung về cơ chế CBAM chỉ đạt khoảng 11%, và có tới 53% doanh nghiệp không biết về nội dung này, còn khoảng 36% doanh nghiệp có “nghe nhưng không nắm rõ.”

Dự án điện gió La Gàn dự kiến cung cấp điện cho hơn 7 triệu hộ gia đình. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Trong khi đó, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp có trụ sở tại châu Âu và Mỹ lại rất chủ động trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao này. Với doanh nghiệp Việt, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn tâm lý e ngại, hoặc chưa đủ nguồn lực để tiến hành chuyển đổi sang sản xuất Xanh, vốn là một quá trình đòi hỏi nguồn tài chính lớn và áp dụng nhiều công nghệ cao.

Theo thông tin từ trang europa.eu, CBAM ban đầu sẽ áp dụng đối với 6 loại hàng hóa nhập khẩu có nguy cơ ô nhiễm cao là sắt thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro… Nhóm hàng hóa này hiện chiếm 94% lượng khí thải công nghiệp của EU. Theo đó, hàng hóa nhập khẩu vào EU sẽ phải báo cáo lượng khí thải khi sản xuất hàng hóa, nếu vượt quá tiêu chuẩn sẽ phải mua chứng chỉ khí thải theo mức giá carbon hiện nay tại EU.

Theo các báo cáo, Việt Nam là đối tác lớn nhất của EU ở khu vực Đông Nam Á. Trong giao dịch thương mại giữa hai bên, EU xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu các sản phẩm công nghệ cao như máy móc, xe cộ, các mặt hàng thuộc về y tế, hóa chất. Ngược lại, Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu chủ yếu là nông sản, đồ gỗ, hàng may mặc và các sản phẩm điện tử được lắp ráp tại Việt Nam.

Các nhà nhập khẩu châu Âu sẽ phải báo cáo lượng khí thải có trong hàng hóa nhập khẩu, nếu vượt quá tiêu chuẩn của châu Âu thì doanh nghiệp đó bắt buộc phải mua chứng chỉ khí thải theo mức giá carbon hiện nay tại châu Âu. Chi phí phát sinh này khiến giá thành của mặt hàng đó giảm sức cạnh tranh.

Tựu chung, CBAM sẽ khiến các doanh nghiệp sản xuất ở các nước đang phát triển khó cạnh tranh hơn ở thị trường châu Âu khi giờ đây, giá cả hàng hóa của họ sau khi bị đánh thuế phát thải, không rẻ hơn bao nhiêu so với hàng hóa do các doanh nghiệp châu Âu sản xuất.

Bởi vậy, về phần Việt Nam, các chuyên gia khuyến nghị các doanh nghiệp Việt cần thực hiện các bước để giảm lượng khí thải carbon ngay trong quá trình sản xuất.

Người tiêu dùng ngày càng khắt khe hơn đối với các tiêu chuẩn về sản xuất Xanh và Bền vững. (Ảnh: Đức Duy/Vietnam+)
Phó Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Baran Bhatia, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển và các thành viên vui mừng sau thành công Lễ ký thoả thuận kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập WTO. (Nguồn: TTXVN)

Cần nhớ về câu chuyện trước khi chúng ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006, với những tâm lý lo ngại rằng tư cách thành viên có thể giúp Việt Nam thu được lợi ích gì từ thương mại quốc tế, hỗ trợ cho những nỗ lực giảm nghèo của Việt Nam, hay những đòi hỏi quá mức của các nước giàu về tự do hóa nhập khẩu và đầu tư nước ngoài có thể cản trở mục tiêu ấy và ảnh hưởng đến sinh kế, nhất là ở khu vực nông thôn?

Sau 17 năm, câu trả lời đã rõ cho những hồ nghi rằng chúng ta sẽ “cưỡi trên lưng hổ” khi gia nhập WTO. Vào thời điểm bước ngoặt năm 2006, cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan - “kiến trúc sư” cho giai đoạn hội nhập quốc tế đầy ngoạn mục của Việt Nam - từng viết: “Trên thực tế, chúng ta muốn qua sông thì phải lụy đò… Gia nhập được WTO có nghĩa là ta đã qua được sông. Vậy ở bờ bên kia cái gì đang chờ đón chúng ta? Điều ai cũng biết là có cả những cơ hội lẫn thách thức…”

Khi “phát súng lệnh” CBAM đã nổ, chúng ta không thể “quay xe" trong cuộc đua. Không chỉ là sự hiểu biết về một sân chơi quy mô trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với tâm thế và bản lĩnh mới, việc đáp ứng các tiêu chuẩn CBAM và triển khai tín chỉ Carbon còn là lời khẳng định cho niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, các đối tác và tổ chức quốc tế vào một tương lai của đất nước Việt Nam./.

Trần Long (Vietnam+)