Vụ bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm”: “Viết sách giáo khoa là công việc nguy hiểm"
Tổng Chủ biên SGK môn Tiếng Việt – Ngữ văn cho hay những ý kiến trái chiều về bài thơ "Tiếng hạt nảy mầm" trong Tiếng Việt lớp 5 cho thấy viết sách giáo khoa là công việc "nguy hiểm."
Phó giáo sư, Tiến sỹ Bùi Mạnh Hùng, Điều phối viên chính Ban phát triển Chương trình giáo dục phổ thông 2018, Tổng Chủ biên sách giáo khoa môn Tiếng Việt – Ngữ văn, bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” cho rằng việc bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” bị công kích trên mạng xã hội đã cho thấy đổi mới chương trình và sách giáo khoa là một hành trình vô cùng khó khăn và gian truân. Viết sách giáo khoa là một công việc rất “nguy hiểm” trong bối cảnh hiện nay.
Vì sao bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” được chọn?
Chia sẻ về việc chọn bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm,” Phó giáo sư, Tiến sỹ Bùi Mạnh Hùng khẳng định bài thơ đảm bảo tính nhân văn, tính giáo dục, tính thẩm mỹ, tính sư phạm. Việc dạy học bài thơ này còn cho học sinh có cơ hội được thưởng thức cái hay trong cách diễn đạt đặc thù của thơ, biết thêm một số từ mới so với vốn từ của các em.
Ông Hùng lấy ví dụ trong câu "Hót nắng vàng ánh ỏi" có sự chuyển đổi cảm giác giữa nghe và thấy, dựng lên một không gian tươi sáng, ngập tràn ánh sáng và âm thanh. Từ "ánh ỏi" vừa nói đến âm thanh lảnh lói, vừa nói đến không gian đầy ánh sáng bao bọc những âm thanh ấy. Trong "ánh ỏi" vừa có "inh ỏi," "rộn ràng," vừa có "lấp lánh," "lóng lánh."
Theo Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng, "chữ" trong thơ luôn có tính sáng tạo. Nhà thơ có thể tạo ra những từ mới hay kết hợp từ mới để biểu đạt cùng lúc vừa đặc điểm khách quan của sự vật vừa ấn tượng, cảm xúc chủ quan của mình về sự vật đó.
Với học sinh lớp 5, giáo viên chưa cần phải phân tích sâu tính sáng tạo trong cách dùng từ của nhà thơ, nhưng việc cho học sinh làm quen với tính sáng tạo đó sẽ giúp các em hiểu thơ hơn, để lên các lớp trên, các em có thể tự phân tích được những bí quyết khiến một bài thơ tuy có nội dung bình thường, dễ hiểu nhưng lại gây được khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt cho người đọc.
Cũng theo ông Hùng, để tổ chức dạy học bài thơ này, dưới văn bản đọc, sách giáo khoa thiết kế hệ thống câu hỏi dành cho giáo viên và học sinh, thể hiện yêu cầu đọc hiểu bài thơ này đối với lớp 5 như: Chi tiết nào giúp em nhận ra đây là lớp học của trẻ khiếm thính? Theo em, những khó khăn, thiệt thòi của các bạn học sinh trong bài thơ là gì? Cô giáo đã gợi lên trong tâm trí học trò những hình ảnh và âm thanh nào của cuộc sống? Những chi tiết nào cho thấy các bạn học sinh rất chăm chú? Vì sao giờ học của cô giáo cuốn hút được các bạn? Em có suy nghĩ gì về cô giáo của lớp học đặc biệt này qua 2 khổ thơ cuối?
“Rất nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục đã lên tiếng khẳng định ‘Tiếng hạt nảy mầm’ của nhà thơ Tô Hà là một bài thơ đặc sắc, nhân văn và giàu tính sáng tạo, hoàn toàn phù hợp với học sinh lớp 5,” Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng nói.
Mục tiêu, nội dung dạy môn Ngữ văn đã thay đổi
Ông Hùng cho hay quan điểm về mục tiêu và nội dung dạy học Ngữ văn ngày nay đã có những thay đổi nhưng nhiều người chưa sẵn lòng đón nhận. Môn Ngữ văn không còn chú trọng cung cấp cho học sinh kiến thức về thành tựu của văn học Việt Nam qua hàng chục thế kỷ như trước đây.
Một trong những thay đổi quan trọng là ngữ liệu trong sách giáo khoa phải đa dạng về thể loại, loại văn bản và nội dung, không chỉ tập trung vào những tác phẩm kinh điển mà còn sử dụng những văn bản tươi mới, nêu được những vấn đề của đời sống đương đại. Qua đó, học sinh có cơ hội mở rộng vốn sống, trải nghiệm, khơi gợi các em trình bày, trao đổi về những vấn đề bức thiết đang diễn ra xung quanh. Từ đó bồi dưỡng tình cảm, nâng cao nhận thức và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt, giúp người học bước vào cuộc sống và tham gia vào thị trường lao động một cách thành công.
Tuy nhiên, quan niệm truyền thống về dạy học Ngữ văn và về văn chương với một số mặt bất cập hiện vẫn còn chi phối nhận thức của nhiều người, khiến cho việc đánh giá ngữ liệu trong sách giáo khoa mới dễ có những ý kiến trái chiều. Các tác phẩm văn học ngày nay được sáng tác theo nhiều phong cách đa dạng, có đặc điểm nghệ thuật mới mẻ, phong phú. Trong sách giáo khoa có những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thơ Đường luật… nhưng cũng có những bài thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, đặc biệt là thơ tự do, có đặc điểm vần, nhịp rất linh hoạt, có cách dùng từ ngữ mới lạ, phá cách… Thế nhưng, đối với nhiều người, những bài thơ có vần, nhịp linh hoạt không được coi là thơ hay, thậm chí “không phải là thơ”.
Đáng chú ý là “sóng” dư luận với bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” lại được bắt đầu từ trang Facebook “Giáo viên Việt Nam” với rất nhiều bình luận tiêu cực đến từ chính các giáo viên. Theo ông Hùng, điều đó cho thấy một bộ phận giáo viên còn yếu về kỹ năng đọc hiểu và khả năng cảm thụ văn học. Nếu giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, văn hóa ứng xử tốt và thái độ tích cực đối với đổi mới giáo dục thì những ý kiến “tạo sóng” trên mạng xã hội sẽ không trở thành vấn đề lớn.
Đổi mới sách giáo khoa là hành trình gian truân
Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng cho rằng, việc bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” bị chỉ trích cho thấy đổi mới chương trình, sách giáo khoa là một hành trình vô cùng gian truân; viết sách giáo khoa là một công việc rất “nguy hiểm” trong bối cảnh hiện nay. Một bài thơ có nội dung nhân văn được biểu đạt bằng những từ ngữ, hình ảnh thơ đặc sắc, chọn lọc công phu của một nhà thơ có tên tuổi, đáng kính vẫn có thể bị chỉ trích thậm tệ thì nhiều tác phẩm văn học khác trong sách giáo khoa mới khó tránh được nguy cơ trở thành nạn nhân của mạng xã hội.
Ông Hùng cho hay một bộ sách giáo khoa Tiếng Việt – Ngữ văn trọn vẹn từ lớp 1 đến lớp 12 như bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” có khoảng 600 văn bản đọc (tác phẩm, đoạn trích), chưa tính đến hàng trăm văn bản được chọn làm bài viết tham khảo cho phần Thực hành viết và hàng trăm đoạn văn ngắn làm ngữ liệu cho phần Thực hành tiếng Việt.
Để chọn được 600 văn bản có chất lượng cao đã khó, chọn được chừng ấy văn bản có chất lượng cao mà phù hợp với yêu cầu của chương trình, với hệ thống chủ điểm của bộ sách, với khả năng tiếp nhận của học sinh ở từng lớp; đáp ứng được vấn đề nhân thân tác giả, giải quyết được vấn đề bản quyền… khó khăn nhân lên gấp bội.
Tuy nhiên, chỉ cần vài văn bản có ý kiến khác biệt đã có thể tạo “sóng” dư luận. Tác phẩm càng mới (có thể mới sáng tác hoặc lâu nay công chúng ít biết đến) càng dễ gây nên những đánh giá trái chiều.
Theo ông Hùng, khiếm khuyết, hạn chế, thậm chí sai sót trong biên soạn sách giáo khoa là khó tránh khỏi nhưng không nghiêm trọng. Nói riêng về ngữ liệu, các văn bản được đưa vào sách giáo khoa là kết quả của quá trình tìm kiếm, lựa chọn rất chuyên nghiệp, công phu, tâm huyết và đầy trách nhiệm của đội ngũ tác giả. Các văn bản này còn có sự biên tập tỉ mỉ, cẩn trọng của đội ngũ biên tập viên nhà xuất bản, sự góp ý của giáo viên dạy thử nghiệm, hội đồng thẩm định nội bộ của nhà xuất bản, ý kiến phản biện độc lập của các chuyên gia giáo dục, nhà nghiên cứu. Và cuối cùng là sự thẩm định nghiêm ngặt (nhiều khi khắc nghiệt), tận tụy của hội đồng quốc gia thẩm định trước khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
“Chúng tôi hy vọng công chúng hiểu rõ hơn khó khăn của những người viết sách giáo khoa, đồng cảm với họ và ủng hộ sự tiến bộ. Đổi mới giáo dục không bao giờ là dễ dàng, khó tránh khỏi những tranh cãi và xung đột, ngay cả ở những nước phát triển. Nếu có quan điểm, cách nhìn nhận khác biệt về một vấn đề nào đó, nên trao đổi trên tinh thần thấu hiểu và tôn trọng,” Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng nói./.