Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968: Biểu tượng sáng của lòng yêu nước
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để giành độc lập, tự do.
55 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vang vọng, bởi đây là sự kiện lịch sử có tầm vóc lớn, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược quyết định trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, của ý chí quyết tâm sắt đá, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để giành độc lập, tự do, được dẫn dắt, soi đường bởi sự lãnh đạo tài tình, đường lối đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Tình thế mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chủ trương của Đảng ta
Sau 10 năm (1954-1964), Mỹ thế chân Pháp vào miền Nam Việt Nam và sau bốn năm (1961-1964) tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt,” mặc dù đã bỏ ra nhiều tiền của và công sức, thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, nhưng Mỹ vẫn không dập tắt được phong trào cách mạng miền Nam.
Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sỹ ở miền Nam phát triển nhanh chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị thất bại nghiêm trọng.
Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ," ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam; đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sự chi viện về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
[Diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968]
Tuy nhiên, bằng sức mạnh của sự đoàn kết và sẵn sàng hy sinh, với đường lối quân sự đúng đắn, quân và dân miền Nam đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ-ngụy. Hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" bị bẻ gãy.
Mục tiêu mà Mỹ đề ra chẳng những không thực hiện được mà còn chịu tổn thất nặng cả về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Không cam chịu, Mỹ liều lĩnh quyết định đưa thêm 10 vạn quân chiến đấu vào miền Nam Việt Nam.
Về phía ta, tháng 12/1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân và dân ta, chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt lớn cho cuộc chiến tranh.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, nhiệm vụ cấp bách lúc này huy động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền Nam-Bắc cùng gấp rút chuẩn bị lực lượng, phương tiện cho cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa.
Miền Nam gấp rút chuẩn bị lực lượng, xây dựng phương án tác chiến và phương án phát động quần chúng nổi dậy, bảo đảm hậu cần tiếp tế, thông tin liên lạc; chuẩn bị cơ sở giấu ém lực lượng và bàn đạp xuất phát tiến công ở vùng ven và trong các đô thị trên toàn miền Nam.
Cùng với đó, ta thực hiện kế nghi binh và đánh lạc hướng quân địch. Ta (và Lào) mở chiến dịch Nậm Bạc ở Thượng Lào, Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh, nhằm đánh lạc hướng, thu hút quân cơ động của Mỹ, vây hãm, giam chân, tiêu hao lực lượng và sinh lực địch tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy.
Đồng loạt nổ súng tiến công
Các hoạt động nghi binh, đặc biệt chiến dịch Đường 9-Khe Sanh đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam và giới lãnh đạo Oasinhtơn bị lạc hướng. Trong khi họ dồn toàn trí và lực lượng ra hướng Đường 9-Khe Sanh và nhận định đây là chiến trường chính, thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bất ngờ diễn ra ở một loạt đô thị trên toàn miền Nam.
Đúng 0 giờ ngày 29/1/1968 (giao thừa theo lịch miền Bắc) quân ta tiến công địch tại sân bay Nha Trang (Khánh Hòa). Từ 0 giờ 30 phút đến 1 giờ 15 phút ngày 30/1/1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân theo lịch miền Nam), quân ta đồng loạt tiến công vào thị trấn Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (Kon Tum), thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), thị xã Pleiku (Gia Lai), thành phố Qui Nhơn (Bình Định), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An...
Cũng trong đêm 29 rạng ngày 30/1/1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ở khắp các tỉnh và thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh, biệt động ta đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu của địch ở Sài Gòn-Gia Định, Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, Biên Hoà, Mỹ Tho, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Kiên Giang, Tuyên Đức...
Tại Sài Gòn-Gia Định - trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ-ngụy tại miền Nam với một hệ thống phòng thủ vững chắc nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại lực lượng tham gia), ngay từ phút đầu nổ súng, biệt động ta đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu lớn như Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hoà, Bộ Tư lệnh hải quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, toà Đại sứ Mỹ…
Trận đánh toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sỹ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.
Đồng thời với lực lượng biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn trang bị gọn nhẹ, từ các bàn đạp vùng ven, nhanh chóng tiến vào nội đô trên các hướng. Xung quanh Sài Gòn-Gia Định, các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hoà, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An... cũng bị tiến công.
Tại mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà đèn, Ty cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49.
Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.
Tại mặt trận Huế, lúc 22 giờ 33 phút, ngày 31/1/1968, tiếng súng tấn công bắt đầu vang lên khắp thành phố; sau 4 ngày chiến đấu liên tục, quân và dân ta đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng như Dinh tỉnh trưởng, đồn cảnh sát, đài phát thanh, khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang (hang ổ của Mỹ), sân bay Phú Bài…
Đông đảo nhân dân Huế đã nổi dậy, dẫn đường cho bộ đội, đào hầm, dựng chiến lũy, tiếp tế, chăm sóc thương binh… và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều khu vực.
Hàng nghìn thanh niên đã gia nhập các đội du kích, tự vệ, các đội công tác. Sau 25 ngày đêm chiến đấu và làm chủ thành phố Huế (từ ngày 31/1 đến 24/2/1968), quân và dân ta đã diệt, bắt sống, bức hàng và làm tan rã hàng chục nghìn tên địch, bắn rơi và phá hỏng nhiều máy bay, tàu chiến, xe quân sự, giải phóng hơn 200.000 dân, 20 xã, 271 thôn, thành lập chính quyền ở 200 thôn.
Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ tiếp tục hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt. Chúng ta tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân địch, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1,6 triệu dân.
Biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam
Bằng cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải đơn phương “xuống thang chiến tranh.”
Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố ba điểm: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai.
Đến tháng 5/1968, Mỹ bắt đầu khởi động quá trình đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Cho dù phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân ra khỏi miền Nam và phải 7 năm sau chế độ Sài Gòn mới sụp đổ, nhưng về mặt chiến lược, Mỹ đã thua cuộc từ mùa Xuân năm 1968.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 dù chưa đạt được mục tiêu cao nhất đặt ra nhưng ta đã tiêu diệt, làm tiêu hao một lực lượng quan trọng quân địch, phá huỷ nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của chúng trên quy mô toàn miền Nam, tạo một bước phát triển đột biến trong cục diện chiến tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến tiến lên.
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta: nghệ thuật nắm bắt thời cơ để chủ động giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh; nghệ thuật tiến công bằng cách đánh chiến lược mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào thành thị; là nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng “lấy nhỏ đánh lớn,” “lấy ít địch nhiều,” “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông,” lấy trí tuệ của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của đế quốc Mỹ.
55 năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa và bài học của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Đó là khát vọng về độc lập, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, là niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối và chỉ đạo chiến lược, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả.
Nhìn lại những chiến công hào hùng của ông cha năm xưa để các thế hệ trẻ ngày nay thêm tự hào, thêm yêu quê hương đất nước và thêm nỗ lực phấn đấu, cùng chung sức đồng lòng xây dựng một Việt Nam phát triển, hội nhập; vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng./.