Thúc đẩy kinh tế xanh: Giải pháp cho Net Zero từ công nghệ đến tài chính

Phát triển kinh tế xanh, bền vững là xu hướng chung của toàn cầu. Tại Việt Nam, sự kết hợp giữa công nghệ xử lý chất thải tiên tiến và thúc đẩy tài chính xanh sẽ là "con đường" cho mục tiêu Net Zero.

Diễn đàn kinh tế xanh: Phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ngày 26/11. (Ảnh: Vietnam+)

Phát triển bền vững là xu thế toàn cầu, với kinh tế xanh, kinh tế số và kinh tế tuần hoàn được nhiều quốc gia ưu tiên. Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, là hướng đi tích cực để giảm thiểu rủi ro từ biến đổi khí hậu.

Để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế xanh bền vững, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, Báo điện tử VOV đã tổ chức "Diễn đàn kinh tế xanh: Phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu," ngày 26/11.

Mục tiêu Net Zero là khả thi

Sự kiện quy tụ các nhà lãnh đạo, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng, tạo diễn đàn thảo luận, trao đổi thông tin, đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức về kinh tế xanh. Các diễn giả đã trình bày cơ hội và chính sách mới trong phát triển kinh tế xanh bền vững gắn với ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam.

Ông Đặng Huy Đông, Nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch Viện trưởng Viện Quy hoạch và Phát triển, cho biết tổng lượng phát thải rác sinh hoạt cả nước hiện nay là 65.000 tấn/ngày. Khoảng 30% lượng rác này được đốt, phát thải gần 10 triệu tấn CO2 mỗi năm, còn 70% chôn lấp phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 mỗi năm.

Tuy nhiên, ông Đông cũng nhấn mạnh điểm tích cực là các doanh nghiệp Việt Nam đã sở hữu công nghệ khí hóa chất thải rắn (bao gồm rác thải sinh hoạt) hầu như không phát thải CO2 (75kg CO2/1 tấn rác). Công nghệ này đã được Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định, công nhận thực nghiệm thành công ở quy mô thương mại. Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã xác nhận kết quả môi trường: không có chất thải rắn phải chôn lấp (như tro bay, tro xỉ từ công nghệ đốt rác phát điện), không có nước thải và khí thải đạt chất lượng cao hơn tiêu chuẩn của EU, Nhật Bản. Hơn nữa, chi phí xử lý chỉ bằng một nửa so với công nghệ đốt rác phát điện, do không cần bù lỗ qua giá bán điện cao (10,05 cents USD/1kWh).

Với công nghệ này, Việt Nam có thể quy hoạch các nhà máy xử lý rác phân tán ở cấp quận, huyện, thay vì xây dưng các nhà máy quy mô lớn hàng ngàn tấn. Ông Đông phân tích việc quy hoạch nhà máy đốt rác quy mô lớn (5.000 tấn/ngày) sẽ gây ra "vết chân carbon rất dài" (carbon footprint) do chi phí vận chuyển rác thải khổng lồ (ước tính 4-5 chục triệu km xe chạy trên thành phố mỗi năm).

Các diễn giả đã trình bày cơ hội và chính sách mới trong phát triển kinh tế xanh bền vững gắn với ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam. (Ảnh: Vietnam+)

Theo đó, ông Đông đưa ra đề xuất Việt Nam cần bắt đầu bằng việc quy hoạch đô thị ưu tiên giao thông công cộng, hạn chế giao thông cá nhân, hạn chế dần và đi đến cấm xe chạy xăng, dầu trong đô thị. Việc quy hoạch nhà máy xử lý rác thải đô thị theo mô hình phân tán, ứng dụng công nghệ khí hóa, sẽ giúp giảm phát thải hàng trăm triệu tấn khí nhà kính mỗi năm.

Ngoài ra, ông Đông cũng đề cập đến việc quy hoạch kiến trúc các khu đô thị ứng dụng công nghệ tiên tiến để giảm tiêu thụ điện năng và gián tiếp giảm phát thải CO2. Ví dụ, tính toán hướng gió, hướng mặt trời hợp lý có thể giảm 2-3 độ C vi khí hậu đô thị, tương đương với việc giảm hàng tỷ kWh điện dùng cho điều hòa. Hay, ứng dụng công nghệ làm mát trung tâm cho cả khu phố, khu đô thị có thể giảm 40-50% lượng điện tiêu thụ so với điều hòa độc lập.

"Việc quản lý quy hoạch, giao thông, chất thải rắn, nước thải với những công nghệ hiện hữu sẽ góp phần giảm hàng trăm triệu tấn CO2 mỗi năm. Trên cơ sở đó, Việt Nam có cơ sở để tin tưởng rằng mục tiêu Net Zero vào năm 2050 theo cam kết quốc tế là khả thi," ông Đông kết luận.

Đẩy mạnh tài chính xanh

Tại diễn đàn, chuyên gia kinh tế, Tiến sỹ Cấn Văn Lực nhấn mạnh biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi nguồn lực khổng lồ để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Các giải pháp bao gồm chuyển đổi ngành công nghiệp, tăng cường quy định ESG (môi trường, xã hội, quản trị) và các cam kết quốc tế như COP26, COP27, COP28. Ông chỉ ra, cơ hội đầu tư vào lĩnh vực này rất lớn, ước tính hàng chục nghìn tỷ USD toàn cầu, tập trung vào các dự án thân thiện môi trường (năng lượng tái tạo, quản lý chất thải, nông nghiệp xanh, vận tải bền vững).

Nhấn mạnh thị trường tài chính xanh toàn cầu đang phát triển mạnh, ông Lực dẫn chứng căm 2023, tổng dư nợ thị trường nợ bền vững đạt 4,16 nghìn tỷ USD và lượng tín dụng và trái phiếu bền vững trong nửa đầu năm 2024 đạt 807 tỷ USD. Việc phát hành trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững cũng đạt mức cao.

“Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình này. Về pháp lý, nhiều văn bản thúc đẩy tín dụng xanh đã được ban hành. Tổng dư nợ tín dụng xanh đạt 665 nghìn tỷ đồng (khoảng 4,5% tổng dư nợ) và dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 3,2 triệu tỷ đồng (hơn 22% tổng dư nợ) tính đến tháng 9/2024. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu xanh còn khiêm tốn (khoảng 1,52 tỷ USD từ 2019 đến tháng 10/2024),” ông Lực nói.

Nhận thức thị trường về ESG và tài chính xanh ở Việt Nam còn thấp, nhiều doanh nghiệp chưa tích hợp ESG vào hoạt động kinh doanh. (Ảnh: Vietnam+)

Về cổ phiếu xanh, ông Lực cho biết Việt Nam tham gia Sáng kiến Sở giao dịch chứng khoán bền vững (SSE), thúc đẩy báo cáo ESG, nhưng việc áp dụng còn hạn chế đồng thời chỉ số VNSI dù hiệu quả hơn VN-Index song chưa phổ biến.

Ngoài ra, ông Lực chỉ ra các thách thức, bao gồm sản phẩm tài chính xanh thiếu đặc thù, khung pháp lý chưa hoàn chỉnh, thẩm định rủi ro khó khăn do thiếu chuyên gia, thiếu cơ chế phối hợp và ưu đãi, độ lệch thời hạn giữa dự án xanh dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng. Thêm vào đó, nhận thức thị trường về ESG và tài chính xanh ở Việt Nam còn thấp, nhiều doanh nghiệp chưa tích hợp ESG vào hoạt động kinh doanh.

Trên cơ sở đó, ông Lực đề xuất các giải pháp về ban hành Danh mục "phân loại xanh," cơ chế đánh giá tác động môi trường, chính sách định hướng hành vi và hỗ trợ tài chính (thuế, phí, lãi suất, quỹ chuyển đổi xanh), thu hút đầu tư tư nhân, xây dựng hệ sinh thái tài chính xanh (mô hình 5Is), thành lập thị trường tín chỉ carbon, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở dữ liệu.

“Đối với tín dụng xanh, Việt Nam cần xây dựng quỹ tái cấp vốn, quy trình thẩm định chuyên biệt và đào tạo cán bộ. Chứng khoán xanh cũng cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp phát hành và tăng cường tuyên truyền. Mặt khác, việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là mục tiêu quan trọng để thu hút đầu tư quốc tế,” ông Lực nói./.