Quan hệ Việt-Lào sẽ tiếp tục phát triển ngày càng mạnh mẽ, bền vững
Hai nước đã đạt được những Thỏa thuận có tầm cỡ chiến lược và lâu dài, như Dự án hợp tác khai thác bến cảng 1, 2, 3 tại Cảng Vũng Áng, đường cao tốc Hà Nội-Vientiane, đường sắt Vientiane-Vũng Áng.
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (5/9/2022/-5/9/2022) và 45 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam-Lào (18/7/1977-18/7/2022), phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại Lào đã phỏng vấn Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng về những thành tựu của hai nước trong thời gian qua, cũng như những triển vọng trong quan hệ Việt Nam-Lào trong thời gian tới.
- Xin Đại sứ chia sẻ về những thành tựu nổi bật của quan hệ Việt Nam -Lào trong 60 năm qua, đặc biệt là sau khi hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị-Hợp tác?
Đại sứ Nguyễn Bá Hùng: Sau khi Hiệp định Geneva năm 1962 về Lào được ký, ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu một dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hai nước thời kỳ hiện đại. Trải qua cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung đầy gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân hai nước Việt Nam-Lào đã giành được độc lập.
Dấu mốc Việt Nam thống nhất đất nước (30/4/1975) và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời (2/12/1975) đã biến năm 1975 trở thành năm bản lề đưa quan hệ Việt Nam-Lào bước sang một trang sử mới, trang sử của quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước. Ngày 18/7/1977, hai nước chính thức ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới và đạt nhiều thành tựu nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử quan hệ hai nước từ đó đến nay.
Có thể nói, thành tựu quan trọng nổi bật nhất trong 60 năm qua là tình đoàn kết và liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam đã giúp cho cách mạng hai nước đứng vững trước nhiều khó khăn, thách thức ngày càng tăng, giúp đưa cuộc chiến chống ngoại xâm của hai dân tộc đi đến thành công, giành lại độc lập tự do của Tổ quốc.
Hai nước đã xây dựng thành công cơ chế hợp tác toàn diện đúng như tinh thần của Hiệp ước Hữu nghị-Hợp tác đã nêu “Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
Có thể khẳng định trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Lào, không có Hiệp ước nào mà mỗi nước ký với nước ngoài tồn tại lâu dài, bền vững và hiệu quả như Hiệp ước này. Hiệp ước này được đặt trong bối cảnh lãnh đạo cấp cao hai nước đều nhìn thấy những thách thức lớn đối với các quốc gia và nhu cầu chiến lược phải thắt chặt đoàn kết và tình đoàn kết hữu nghị ấy giữa Việt Nam-Lào phải được cụ thể hóa bằng một thể chế hợp tác lâu dài bền vững, điều này thể hiện một tư duy chiến lược xuyên suốt của lãnh đạo hai nước và bám sát thực tiễn phát triển quan hệ mỗi nước.
Quan hệ và hợp tác trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng là rất đặc biệt, xuất phát từ liên minh chiến đấu Lào-Việt trong cuộc kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm, được vun đắp bằng sự hy sinh xương máu của hàng vạn chiến sĩ Việt Nam-Lào. Đặc biệt trước những thách thức liên tục, gay gắt của tình hình quốc tế khu vực, mối quan hệ này ngày càng phát triển cả chiều rộng, chiều sâu và ngày càng phát huy hiệu quả.
Việt Nam và Lào không có quan hệ an ninh quốc phòng phát triển như vậy đối với bất kỳ nước thứ 3 nào khác. Quan hệ an ninh quốc phòng góp phần đảm bảo vững chắc an ninh toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an toàn trật tự xã hội và trong lĩnh vực chống tội phạm chuyên gia, bảo đảm duy trì hòa bình, ổn định, xuyên suốt 2.337km đường biên giới; góp phần duy trì quan hệ nhân dân, láng giềng thực sự thân thiện và tốt đẹp. Có thể thấy, quan hệ an ninh quốc phòng đã trở thành một trong những trụ cột vững chắc nhất trong quan hệ Việt Nam- Lào và đang tiếp tục được củng cố, tăng cường trong thời gian tới.
Quan hệ chính trị-ngoại giao hai nước không ngừng phát triển, ngày càng sâu sắc, vững chắc dựa trên lòng tin chính trị ngày càng được củng cố và tăng cường. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào giữ vai trò then chốt, là trụ đỡ vững chắc định hướng đảm bảo cho quan hệ phát triển ổn định, vững chắc, bất chấp mọi thách thức của thời cuộc có những lúc hết sức gay gắt cho mỗi nước và cho quan hệ hai nước.
[Thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt Việt-Lào]
Quan hệ đối ngoại giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là mối quan hệ thực sự đồng chí, anh em, gắn bó, cùng chung lý tưởng và luôn có sự tin cậy ở mức độ cao nhất. Ngay cả khi dịch COVID-19 bùng phát mạnh mẽ trên thế giới làm đình trệ hầu hết các hoạt động đối ngoại cấp cao, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, Nhà nước vẫn thường xuyên thăm lẫn nhau, đem đến cho nhau sự hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần, giúp nhau đứng vững, vượt qua đại dịch.
Quan hệ về kinh tế-thương mại-đầu tư giữa hai nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả theo định hướng của hai Bộ Chính trị.
Việt Nam luôn nằm trong nhóm 3 nhà đầu tư hàng đầu, kim ngạch thương mại hai nước năm 2021 đạt 1,37 tỷ USD tăng 33,32% so với năm 2020 và cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Tuy đầu tư của Việt Nam vào Lào có những dự án gặp khó khăn, đình trệ, thậm chí có những dự án không hiệu quả, nhưng những thành quả to lớn trong hợp tác kinh tế đã khẳng định rõ tầm quan trọng và tính hiệu quả trong hợp tác kinh tế, đặc biệt trong những năm gần đây khi hai nước có những thỏa thuận mang tính chiến lược như việc Việt Nam dành cầu cảng Vũng Áng 1, 2, 3 cho Lào sử dụng để phát triển đất nước, tích cực hợp tác để thu xếp nguồn vốn thực hiện đường cao tốc Hà Nội-Vientiane, đường sắt Vientiane-Vũng Áng, giúp Lào từ một nước không có biển trở thành một nước có đường ra biển. Điều này cho thấy lòng tin chiến lược đặc biệt chỉ có giữa Việt Nam và Lào. Nếu trong những năm tới dự án này được đi vào thực hiện một cách có hiệu quả sẽ là một nguồn lực to lớn giúp kinh tế Lào phát triển theo hướng đa dạng hóa, gián tiếp kích thích sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Cùng với đó, Việt Nam, Lào, Nhật Bản sẽ nâng cấp con đường số 8; một số nước hỗ trợ Lào nâng cấp con đường số 2 đi từ Lào sang Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Lào trở thành trung tâm kết nối như chiến lược phát triển của Lào.
Lĩnh vực giáo dục-đào tạo cũng là một điểm sáng trong nhiều thập kỷ qua giữa hai nước. Đối với Lào, Việt Nam vẫn là nơi để Lào gửi gắm con em sang học tập với lòng tin cậy cao và hiện có khoảng trên 14.000 sinh viên. Mặc dù hiện nay Lào đang đa dạng hóa nguồn đào tạo nhưng số lượng sang học tại Việt Nam vẫn đông nhất.
Đối ngoại nhân dân của hai nước ngày càng phát triển sâu sắc. Trên thực tiễn, Lào và Việt Nam luôn dành ưu tiên cao nhất trong phát triển quan hệ nhân dân. Các địa phương của cả hai nước liên tục phát triển, ngày càng đi đúng hướng, vừa cho thấy sự quan tâm, tinh thần đoàn kết hữu nghị, vừa thể hiện sự hợp tác, hỗ trợ giữa các địa phương. Hiện nay 18/18 thành phố, địa phương Lào đã xây dựng mối quan hệ hợp tác, kết nghĩa với nhiều tỉnh thành tiềm năng của Việt Nam, đặc biệt nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có quan hệ hợp tác, hỗ trợ hiệu quả với nhiều địa phương của Lào.
Những thành tựu trên đây là hết sức sâu sắc, đảm bảo nền tảng vững chắc để quan hệ Lào-Việt Nam tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
- Trong những năm qua, hai nước đã và đang tập trung triển khai và thúc đẩy các dự án phát triển hạ tầng kết nối giữa hai nước, trong đó có dự án cao tốc Hà Nội-Vientiane và dự án cảng Vũng Áng, Đại sứ đánh giá thế nào về triển vọng quan hệ hai nước trong thời gian tới?
Đại sứ Nguyễn Bá Hùng: Trong thời gian qua, mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào không ngừng phát triển và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Đặc biệt, hai nước đã đạt được những Thỏa thuận có tầm cỡ chiến lược và lâu dài, như Dự án hợp tác khai thác bến cảng 1, 2, 3 tại Cảng Vũng Áng, đường cao tốc Hà Nội-Vientiane, đường sắt Vientiane-Vũng Áng; trong đó Dự án hợp tác ở Cảng Vũng Áng đã thực sự thể hiện rõ tình cảm đặc biệt, sự tin cậy chính trị và chí tình chí nghĩa giữa những người đồng chí, anh em Việt Nam-Lào, là dự án có một không hai trong quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia.
Những dự án có quy mô lớn kể trên không chỉ là những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, tạo lợi thế rộng mở cho các doanh nghiệp Việt Nam và Lào hợp tác phát triển ở các lĩnh vực nhiều tiềm năng như du lịch, dịch vụ; kết nối hai nền kinh tế giữa Việt Nam và Lào mà ý nghĩa còn cao và xa hơn thế, thể hiện sự tin cậy, gắn bó, keo sơn, sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước trong mọi hoàn cảnh. Dự án Cảng Vũng Áng đang ở trong giai đoạn hoàn thành các thủ tục cuối cùng để đưa cầu cảng số 1, 2, 3 của Cảng Vũng Áng đi vào hoạt động; các dự án tuyến đường sắt, đường cao tốc khác cũng đang trong quá trình thu xếp vốn để sớm triển khai thực hiện.
Khi những dự án này đi vào hoạt động một cách có hiệu quả sẽ mang lại lợi ích thiết thực, mở ra cơ hội không chỉ cho Việt Nam và Lào có thể khai thác tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước mà còn tăng cường kết nối Việt Nam và Lào với các nước trong khu vực, trong đó có Thái Lan, thúc đẩy kinh tế Lào tăng trưởng thông qua phát triển lĩnh vực giao thông vận tải và thương mại, đưa Lào trở thành nước có đường ra biển, địa điểm trung chuyển hàng hóa giữa các nước trong khu vực và quốc tế; đồng thời góp phần đưa hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước tương xứng với hợp tác về chính trị.
Với những thành tựu to lớn, sâu sắc, có tính bền vững trong quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào trong thời gian qua, tôi tin tưởng rằng trong thời gian tới quan hệ giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển ngày càng mạnh mẽ, hiệu quả, bền vững hơn nữa, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước chúng ta bất chấp những khó khăn, thách thức đang đặt ra cho mỗi nước cũng như quan hệ hai nước của chúng ta hiện nay.
- Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, việc hai nước tổ chức Năm Đoàn kết Hữu nghị 2022 có ý nghĩa như thế nào thưa Đại sứ? Việt Nam và Lào cần làm gì để các thế hệ trẻ hai nước hiểu và tiếp tục kế tục, gìn giữ, vun đắp, phát triển quan hệ Việt Nam-Lào cho muôn đời sau?
Đại sứ Nguyễn Bá Hùng: Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, đặc biệt là sau khi dịch bệnh COVID-19 tại hai nước được kiểm soát tốt, việc hai nước tổ chức các hoạt động kỷ niệm Năm Đoàn kết Hữu nghị 2022 từ cấp Trung ương đến địa phương với nhiều hoạt động phong phú, thiết thực, trong đó việc tổ chức các chuyến thăm lẫn nhau của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, Đoàn lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và ký kết các thỏa thuận hợp tác tích cực thực hiện các thỏa thuận cấp cao, triển khai nhiều hoạt động đối ngoại nhân dân…, có ý nghĩa vô cùng trọng đại trong quan hệ hai nước, là dấu mốc mới của quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào.
Đây cũng là dịp hết sức quan trọng để các tầng lớp nhân dân hai nước cùng ôn lại, tăng cường hiểu biết sâu sắc hơn nữa về truyền thống mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào từ giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước ngày nay; thấy rõ trách nhiệm của nhân dân hai nước trong việc cùng nhau bảo vệ, phát triển và nâng tầm mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trên tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự lực tự cường, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi bên vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Giáo dục thế hệ trẻ ở cả hai nước thấm nhuần lịch sử và giá trị cao đẹp của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc giữ gìn vun đắp quan hệ giữa hai nước. Đây cần là việc làm thường xuyên, liên tục của hai Đảng và hai Nhà nước.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng âm mưu chia rẽ, chống phá mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào thì việc sớm đưa nội dung các sản phẩm của công trình lịch sử mối quan hệ đặc biệt hai nước Việt Nam-Lào vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục của hai nước nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục về truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trong thế hệ trẻ hai nước là một việc làm vô cùng cần thiết.
Trong thời gian tới, nhằm phát huy những thành quả đạt được, thế hệ trẻ hai nước cần tiếp tục triển khai nhiều chương trình hợp tác cụ thể với những hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, đi vào chiều sâu, chú trọng tổ chức các cuộc gặp gỡ, giao lưu hữu nghị thanh niên; tổ chức thêm nhiều hội thảo, tọa đàm, trao đổi thông tin, kinh nghiệm; mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ; hoạt động thanh niên tình nguyện, hợp tác giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo; xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển…
Thông qua những hoạt động cụ thể và thiết thực đó, tuổi trẻ hai nước không chỉ tạo thêm nhiều cơ hội trong việc trau dồi bản thân cả về kiến thức và kinh nghiệm, mà còn góp phần vào giữ gìn, củng cố và phát triển mối quan hệ đoàn kết gắn bó, tin cậy, tương hỗ giữa thế hệ trẻ hai nước nói riêng và nhân dân hai nước chúng ta nói chung, góp phần thiết thực vào việc phát triển mối quan hệ thủy chung trong sáng, mẫu mực, hiếm có giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào.
- Xin trân trọng cám ơn Đại sứ!/.