Phòng vệ thương mại: "Lá chắn" cho sản xuất trong nước
Ông Trịnh Anh Tuấn - Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương) trả lời phỏng vấn về các giải pháp phòng vệ thương mại, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước.
Gần đây, nhiều hàng hóa nhập khẩu có dấu hiệu bị bán phá giá hoặc được trợ cấp, gây thiệt hại nghiêm trọng cho một số ngành sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, nhờ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hợp lý, phù hợp với cam kết quốc tế nên các ngành sản xuất trong nước không những được bảo vệ trước những hành vi cạnh tranh không công bằng mà còn giúp các ngành phát triển và gia tăng giá trị kinh tế.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Trịnh Anh Tuấn-Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương) về các giải pháp phòng vệ thương mại, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước.
- Việt Nam đã áp dụng hợp lý và hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại, góp phần bảo vệ lợi ích một số ngành sản xuất và thị trường hàng hóa trong nước. Vậy, hiệu quả từ các giải pháp này hiện nay ra sao, thưa ông?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã tiến hành 29 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại; trong đó, có 20 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc chống trợ cấp, 2 vụ việc chống lẩn tránh và 6 vụ việc tự vệ.
Thống kê cho thấy, các biện pháp phòng vệ thương mại đã áp dụng với hàng nhập khẩu hiện đang bảo vệ các ngành sản xuất trong nước chiếm khoảng 9,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam (ước tính theo GDP năm 2023) và công ăn việc làm của hàng trăm nghìn lao động.
Nhờ việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hợp lý, phù hợp với cam kết quốc tế, các ngành sản xuất trong nước được bảo vệ trước những hành vi cạnh tranh không bình đẳng của hàng nhập khẩu. Từ đó, tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo thêm việc làm và giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Ở góc độ tiêu dùng, các biện pháp phòng vệ thương mại trong dài hạn giúp cho nền kinh tế không bị phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu, đem lại sự ổn định và chống chịu tốt hơn trước các tác động và cú sốc từ bên ngoài.
Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng phòng vệ thương mại cũng giúp tăng khả năng tận dụng cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA), đồng thời làm giảm nguy cơ Việt Nam bị nước ngoài điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại do Việt Nam đã chủ động và bảo vệ được nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước.
- Vậy theo ông,cơ quản quản lý Nhà nước và các ngành sản xuất cần có chiến lược lâu dài ra sao để tăng năng lực phòng vệ thương mại và năng lực cho hàng hóa trong nước?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Bộ Công Thương luôn theo sát và thực hiện các hoạt động phòng vệ thương mại trên cơ sở yêu cầu của ngành sản xuất trong nước. Từ đó, ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu theo đúng quy định pháp luật và cam kết quốc tế.
Cụ thể, Bộ Công Thương đang triển khai Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”; tập trung vào các hoạt động tăng cường thông tin, kiến thức về các biện pháp phòng vệ thương mại cho các ngành sản xuất trong nước.
Cùng đó, Bộ Công Thương đang phối hợp với các hiệp hội, đơn vị liên quan theo dõi sát tình hình sản xuất, nhập khẩu để kịp thời có biện pháp phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước.
Đối với vụ việc điều tra, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tiến hành công khai, minh bạch theo đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo ý kiến của tất cả các bên có lợi ích liên quan đều được lắng nghe, đưa ra những kết luận phản ánh chính xác nhất thực tế. Điều này nhằm ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu.
Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ và Bộ Công Thương, việc xử lý hiệu quả các hoạt động điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đòi hỏi sự tích cực, chủ động tham gia của cộng đồng doanh nghiệp.
Do vậy, để giảm thiểu tác động tiêu cực của phòng vệ thương mại, các ngành sản xuất, xuất khẩu và doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường. Điều này để tránh phát triển quá nóng vào một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng giá.
Mặt khác, doanh nghiệp cần cân nhắc các rủi ro về phòng vệ thương mại khi xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu; trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại. Doanh nghiệp nên chuẩn bị nguồn lực để đối phó với các nguy cơ kiện phòng vệ thương mại; theo dõi thông tin cảnh báo của Bộ Công Thương trong quá trình xuất khẩu sang các nước.
Đặc biệt, tuân thủ chặt chẽ quy định về chứng nhận xuất xứ; không tiếp tay cho hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tham gia hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra và phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong quá trình xử lý vụ việc.
- Bộ Công Thương có giải pháp hỗ trợ giúp doanh nghiệp, ngành hàng mở rộng sản xuất cũng như tạo lá chắn để bảo vệ ngành hàng trong nước như thế nào, thưa ông?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Bộ Công Thương luôn chỉ đạo, phối hợp với hiệp hội, địa phương để nâng cao năng lực phòng vệ thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp nhằm hạn chế thấp nhất tác động bất lợi. Cùng đó, phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, địa phương chia sẻ thông tin về phòng vệ thương mại, hướng dẫn doanh nghiệp cách thức tham gia vụ việc phòng vệ thương mại, trả lời yêu cầu của cơ quan điều tra.
Mặt khác, Bộ Công Thương xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để xác định định kỳ những mặt hàng có khả năng trở thành đối tượng điều tra phòng vệ thương mại, cảnh báo trước nguy cơ để doanh nghiệp có sự chuẩn bị sẵn sàng; hỗ trợ doanh nghiệp trong vụ việc và tiến hành điều tra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Trong quá trình này, nếu doanh nghiệp cần tư vấn Bộ Công Thương sẵn sàng tham gia cũng như theo dõi chặt chẽ hoạt động của cơ quan điều tra nước ngoài.
Đặc biệt, với các cuộc điều tra hàng nhập khẩu, Bộ Công Thương sẽ giữ nguyên tắc thực hiện công bằng, minh bạch, theo đúng các quy định của pháp luật cũng như cam kết của Việt Nam trong hiệp định thương mại quốc tế. Đồng thời, tiếp tục lắng nghe ý kiến của các bên liên quan và đưa ra kết luận dựa trên số liệu, chứng cứ thực tế mà các bên liên quan cung cấp.
Điều này nhằm đưa ra quyết định có tính khách quan, công bằng nhất và vẫn bảo vệ được lợi ích của ngành sản xuất trong nước nhưng cũng tính toán đến tác động đến kinh tế-xã hội và ngành sản xuất khác bị ảnh hưởng hoặc có thể bị ảnh hưởng.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!