Phát triển đô thị bền vững ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
Quy hoạch đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ góp phần làm giảm tác động xấu của môi trường lên cuộc sống của người dân, tạo không gian, môi trường sống xanh.
Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Vùng đã có bước tiến dài trong việc quy hoạch và phát triển đô thị song cũng chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Do đó, việc phát triển đô thị bền vững đòi hỏi sự điều tiết hài hòa với bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường.
Đây là vấn đề nổi bật mà chính quyền địa phương trong vùng cùng với chuyên gia, nhà hoạch định chính sách phải đặc biệt quan tâm để có những định hướng quy hoạch, phát triển đô thị lâu dài, thiết thực, ổn định.
Thích ứng với biến đổi khí hậu
Tại Đồng bằng Sông Cửu Long, việc hình thành và phát triển đô thị bền vững đang phải đối mặt với việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh hơn so với dự báo, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân.
Bài toán đặt ra cần có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa nguồn lực và sự tham gia của thành phần kinh tế để phát triển bền vững đô thị vùng.
Thông tin từ Hội thảo “Quy hoạch và phát triển đô thị bền vững vùng Đồng bằng Sông Cửu Long” do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ Xây dựng, Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tổ chức tại Hậu Giang vừa qua, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hiện có 211 đô thị; tỷ lệ đô thị hóa của vùng là 32%, thấp hơn tỷ lệ trung bình của cả nước là 40,5%.
Dự báo giai đoạn 2021-2025 vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có trên 250 đô thị; trong đó, 4 đô thị loại I, 2 đô thị loại II, 11 đô thị loại III, 42 đô thị loại IV và 78 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 khoảng 35%-36%, năm 2030 đạt khoảng 42%-48% (cả nước dự kiến 45% năm 2025 và hơn 50% vào năm 2030).
[Đánh giá mức độ sạt lở bờ sông, bờ biển 5 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long]
Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) bà Trần Thị Lan Anh cho biết Đồng bằng Sông Cửu Long được cảnh báo là 1/3 vùng đồng bằng bị ngập lụt, mất đất lớn nhất thế giới.
Theo dự báo, mực nước biển sẽ dâng lên từ 0,5-1m vào cuối thế kỷ XXI. Do đó, nếu không có giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu thì 35% dân số vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với 39% diện tích chịu ảnh hưởng.
Toàn bộ 13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đều có nguy cơ ngập cao bởi biến đổi khí hậu như Kiên Giang (80%), Hậu Giang (80%), Bạc Liêu (40 - 50%), Sóc Trăng (25-30%), Cà Mau (40-50%).
Một số đô thị lớn, trung bình có nguy cơ ngập cao với tỷ lệ phần trăm diện tích ngập gồm tỉnh Kiên Giang gồm thành phố Rạch Giá (85-90%), thị xã Hà Tiên (85-90%); tỉnh Hậu Giang gồm thành phố Vị Thanh (85-90%), thành phố Ngã Bảy (85-90%); thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau (60-70%); thành phố Sóc Trăng tỉnh Sóc Trăng (10-20%); thành phố Cần Thơ (5-10%); thị xã Gò Công tỉnh Tiền Giang (20-25%).
Như vậy, phân vùng các khu vực chịu ảnh hưởng ngập lụt sẽ có khu vực ngập sâu trung bình từ 2m thuộc các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang; khu vực ngập trung bình 1- 2m, thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ và khu vực ngập nông thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ và Hậu Giang.
Theo đánh giá của bà Trần Thị Lan Anh, việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, nhất là xây dựng đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội của vùng.
Mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế với cường độ cao ở nội vùng bộc lộ ngày càng gay gắt, gây nhiều hệ lụy như ô nhiễm môi trường, sụt lún đất, suy giảm mực nước ngầm, biển xâm thực.
Việc khai thác bùn cát quá mức, xây dựng nhà cửa và hạ tầng sát bờ sông, kênh, rạch làm gia tăng nguy cơ sạt lở… là những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển đô thị.
Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cũng nhận định sự phân cấp giữa địa phương và Trung ương còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp chặt chẽ; cơ chế điều phối phát triển vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chưa thực sự phát huy tác dụng.
Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương chưa đồng bộ, thiếu tính liên kết toàn vùng, chưa gắn kết chặt chẽ với Thành phố Hồ Chí Minh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Tiểu vùng sông Mekong. Việc huy động, sử dụng nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế.
Để giảm thiếu sự tác động của biến đổi khí hậu lên khu vực đô thị, Tiến sỹ Hồ Công Đức (Trường Đại học Thương mại) nhấn mạnh việc quy hoạch đô thị được xem là một trong những biện pháp quan trọng. Đây là quá trình tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị.
Do đó, quy hoạch đô thị thích ứng với biến đổi của khí hậu sẽ góp phần làm giảm tác động xấu của môi trường lên cuộc sống của người dân thành thị như ngập lụt, triều cường, bão, nhiệt độ tăng cao, hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm không khí… Quy hoạch cũng tạo ra không gian xanh, hồ điều hòa tại khu đô thị, tạo nên môi trường sống trong lành cho người dân đô thị.
Trước những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu đến khu vực đô thị, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cho biết Nghị quyết 06 năm 2022 của Bộ Chính trị về “Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” xác định định hướng phát triển đô thị theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối; phát triển đô thị có chức năng tổng hợp với quy mô và dân số ở mức hợp lý theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai và dịch bệnh.
Theo bà Trần Thị Lan Anh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 287/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa của vùng đạt khoảng 42- 48%; định hướng phát triển hệ thống đô thị Đồng bằng Sông Cửu Long theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị, dọc theo hành lang phát triển chính của vùng; mô hình đô thị sinh thái, nén, thích ứng biến đổi khí hậu.
Cụ thể, thành phố Cần Thơ là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương, là trung tâm hành chính, dịch vụ, thương mại, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, văn hóa, du lịch, công nghiệp chế biến của toàn vùng; cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục có chất lượng cao có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Cùng đó, thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) là một trong những trung tâm dịch vụ thương mại, logistic, du lịch tại khu vực phía Bắc sông Tiền; đô thị cửa ngõ giữa vùng Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; trung tâm nông nghiệp công nghệ cao về cây ăn trái và trung tâm dịch vụ du lịch miệt vườn.
Thành phố Tân An (Long An) lại là trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ phía Đông Bắc của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đô thị cửa ngõ giữa vùng Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng Sông Cửu Long.
Thành phố Long Xuyên (An Giang) là một trong những trung tâm thương mại dịch vụ phía Tây Bắc của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; là trung tâm chuyển giao công nghệ về nông nghiệp công nghệ cao, nhất là lúa gạo và thủy sản nước ngọt.
Thành phố Rạch Giá (Kiên Giang) là trung tâm kinh tế biển, thương mại dịch vụ tại khu vực ven biển phía Tây của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; là trung tâm nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thủy hải sản; trung tâm công nghiệp chế biến nông-thủy sản.
Thành phố Cà Mau có vai trò là trung tâm tiểu vùng ven biển tại khu vực bán đảo Cà Mau; là trung tâm năng lượng và dịch vụ dầu khí quốc gia, trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái, trung tâm chế biến thủy sản của vùng.
Thành phố Sóc Trăng là trung tâm kinh tế của tiểu vùng ven biển Đông, là trung tâm nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thủy hải sản; trung tâm công nghiệp chế biến nông- thủy sản, công nghiệp năng lượng sạch; trung tâm du lịch văn hóa lịch sử.
Các chuyên gia, nhà khoa học khẳng định Trung ương và địa phương vùng Đồng bằng Sông Cửu Long phải chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong cải tạo nâng cấp và phát triển đô thị; rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, quản lý đầu tư phát triển đô thị trong bối cảnh gia tăng nguy cơ rủi ro từ biến đổi khí hậu; nâng cao nhận thức, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong điều hành, quản lý phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong việc quy hoạch đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu để tạo thêm sức mạnh tài chính, tính khoa học, tính bền vững trong quy hoạch và xây dựng đô thị.
Phát triển đô thị bền vững vùng Đồng bằng Sông Cửu Long cần xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, biến thách thức thành cơ hội; trong đó, lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn vùng và từng địa phương.
Kiến tạo không gian cho nước
Quy hoạch phát triển đô thị cần chuyển từ “sống chung với lũ” sang “chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn” trên cơ sở quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên nước, chủ động bảo đảm nguồn nước ngọt cho sinh hoạt của người dân và vùng kinh tế nước lợ, nước mặn.
Cùng đó, khai thác hợp lý tiềm năng tài nguyên nước lợ, nước mặn ở vùng ven biển phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Mọi dự án, công trình phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường được phản biện khách quan, khoa học.
Chia sẻ về giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) bà Trần Thị Lan Anh cho rằng cần tập trung mô hình phát triển hệ thống đô thị- nông thôn. Cụ thể, kết hợp phi tập trung và tập trung “nén” - chủ động “dành chỗ cho nước;” đảm bảo sự cân bằng hệ sinh thái và cấu trúc sông, kênh, rạch hiện có; chọn đất phát triển đô thị, điểm dân cư nông thôn tính đến tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng; phù hợp với đặc điểm cấu trúc địa hình tự nhiên.
Cùng đó, hình thành hệ thống kiểm soát, hạn chế lũ, lụt, ngập úng trong đô thị; hình thành hồ chứa điều tiết ngập lụt, khai thông, nạo vét, cải tạo, gia cố, nắn dòng cho các đường thoát nước đô thị; xây dựng đê, kè, tường chắn lũ, phân dòng lũ, công trình chứa nước ngầm hiện đại quy mô lớn, đồng thời khoanh vùng bảo vệ và có giải pháp tái định cư và di dời dân trong vùng cảnh báo rủi ro và phát triển nhà ở vượt lũ, nhà ở có khả năng chống chịu cao với gió bão.
Trong Quy hoạch vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt đã xác định khu vực chịu ảnh hưởng của ngập lụt và đề ra phương hướng xây dựng đô thị cho từng khu vực.
Đáng lưu ý, khu vực 1 ngập sâu trung bình từ 2m thuộc các tỉnh: Long An, Đồng Tháp, An Giang; khu vực 2 ngập trung bình 1m-2m, thuộc các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ.
Tại 2 khu vực này cần hạn chế phát triển đô thị quy mô lớn và hạn chế san lấp mặt bằng quy mô diện tích lớn; phát triển đô thị theo tuyến song song với hướng thoát lũ nhằm giảm tác động của lũ đến đô thị.
Khu vực 3 ngập nông thuộc các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ và Hậu Giang cần phát triển đô thị quy mô diện tích lớn; tập trung theo hình thái đô thị nén; dành quỹ đất cần thiết để đào hồ, kết nối kênh rạch đảm bảo tiêu thoát nước; xây dựng mới, cải tạo và vận hành tốt tuyến đê ngăn triều ở cửa sông nhằm hạn chế tác động ngập lụt và xâm mặn đến đô thị.
Khu vực 4 ven biển chịu ảnh hưởng của thủy triều cần phát triển đô thị tại khu vực đất giồng, bãi bồi cao ở ven sông, ven biển. Tại khu vực đô thị xây dựng mật độ cao, dùng phương pháp san đắp tập trung toàn bộ khu vực xây dựng, giải pháp đê bao chống lũ hoặc kết hợp cả hai giải pháp.
Khu vực xây dựng với mật độ thấp, san đắp cục bộ theo vị trí công trình, dành quỹ đất còn lại trong từng khu chức năng để đào hồ, kết nối kênh rạch đảm bảo việc tiêu thoát nước. Khuyến khích phát triển các loại công trình, mô hình ở thích nghi với lũ.
Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) nhấn mạnh, việc quy hoạch đô thị cần phải có sự đổi mới nhất định theo hướng gắn kết chặt chẽ quy hoạch đô thị với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch ngành quốc gia.
Theo bà Trần Thị Lan Anh, việc phát triển đô thị bền vững cũng cần phải chú trọng đến cấu trúc không gian vùng; trong đó, cần tính đến sự suy giảm dòng chảy kiệt, vì có thể ảnh hưởng lớn đến các hành lang đường thủy, từ đó cấu trúc phát triển đô thị dựa trên mạng lưới đường bộ.
Sự hình thành các tuyến đê biển theo Quyết định số 667/QĐ-TTg “về việc phê duyệt Chương trình củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang” kết hợp với đường giao thông ven biển có thể tạo ra một hành lang ven biển mới. Các đô thị hạt nhân giữa sông Tiền-sông Hậu có thể bị ảnh hưởng nặng dưới tác động của lũ dẫn đến phát triển bán tập trung, phân tán. Phân vùng chức năng như vùng giảm lũ (vùng trên), vùng phát triển (vùng giữa), vùng thích nghi (ven biển)…
Mặt khác, tổ chức, phát triển hệ thống đô thị và điểm dân cư nông thôn phù hợp với đặc điểm của hệ sinh thái tự nhiên, điều kiện cụ thể của vùng và từng tiểu vùng sinh thái; rà soát, hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất, bố trí lại dân cư; trong đó, kiểm soát và hạn chế việc xây dựng điểm dân cư tập trung tại vùng sát bờ sông, kênh, rạch có nguy cơ sạt lở cao nhằm tránh rủi ro; dành không gian thoát lũ để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Đối với thành phố Cần Thơ, Nghị quyết số 59–NQ/TW năm 2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ là thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giáo dục và đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao; là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Thành phố Cần Thơ định hướng những vùng công năng chủ đạo (vùng đô thị sinh thái Phong Điền đóng vai trò là vùng dự trữ sinh thái của lưu vực sông Cần Thơ; vùng đô thị ven sông Hậu đóng vai trò khai thác cảnh quan ven sông đặc trưng) khai thác yếu tố nước cũng như là những vùng đệm giữ năng lực thẩm thấu tự nhiên…
Cấu trúc của vùng chức năng được xác định có mối tương hỗ chặt chẽ với nhau, bổ trợ nhau là chuỗi cung ứng phục vụ đô thị. Mô hình này bổ sung vào hệ thống sản xuất lớn những khu vực dịch vụ nông nghiệp đô thị đóng vai trò cảnh quan và cung cấp một phần cho nhu cầu của đô thị.
Tỉnh Hậu Giang có 2 đô thị là thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy có nguy cơ ngập cao với diện tích ngập từ 85%- 90%. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang Đồng Văn Thanh cho biết Hậu Giang xác định chủ trương phát triển đô thị nhanh và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt.
Tỉnh sử dụng công cụ, phương pháp để tích hợp rủi ro liên quan đến khí hậu vào quy hoạch phát triển đô thị và phát triển hạ tầng đô thị, giúp tăng cường khả năng chống chịu.
Cũng theo Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang, để từng bước cụ thể hóa nội dung phát triển bền vững đô thị đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh Hậu Giang đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án “Phát triển đô thị xanh thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Ngã Bảy.”
Dự án này có tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 1.211 tỷ đồng (tương đương 44,5 triệu euro) từ nguồn vốn vay AFD và vốn đối ứng của tỉnh, thực hiện từ năm 2023 đến năm 2026.
Mục tiêu của dự án hướng đến việc xây dựng thành phố Ngã Bảy thành đô thị xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu theo hướng hiện đại, tiếp cận các tiêu chuẩn đô thị xanh, đô thị văn minh đối với đô thị trọng điểm của tỉnh để bảo đảm xứng tầm phát triển là một trong những đô thị hạt nhân của tỉnh Hậu Giang.
Tiến sỹ Hồ Công Đức (Đại học Thương mại) cho rằng để phát triển đô thị bền vững, ngành chức năng cần quy định cụ thể việc xây dựng nhà ở, công trình có liên quan phải ứng phó được với biến đổi của khí hậu.
Đặc biệt chú trọng đến hệ sinh thái đô thị, diện tích cây xanh đô thị phù hợp với việc tăng dân số và mật độ xây dựng; giữ lại những hồ điều hòa tại đô thị, giảm bê tông hóa, tạo ra không gian thoáng đãng.
Bên cạnh đó, cần di dời, sắp xếp lại điểm dân cư có nguy cơ ngập úng, lũ quét, sạt lở đất, ngập nặng do triều cường; chú trọng xây dựng hệ thống tiêu nước, xử lý chất thải, tăng khả năng tiêu thoát nước tại đô thị, nhất là đô thị lớn.
Riêng với đô thị ven biển, theo Tiến sỹ Hồ Công Đức, cần có biện pháp trồng cây xanh chống gió bão, trồng rừng ngập mặn chống sạt lở bờ biển, ngập lụt do triều cường. Khuyến khích sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, làm giảm hiệu ứng nhà kính, phát huy những công trình có khả năng ứng phó tốt với sự tác động trở lại của biến đổi khí hậu như tòa nhà xanh, công trình xanh./.