Miễn công bố hợp quy đối với sản phẩm đáp ứng các yêu cầu quản lý chất lượng
Để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng các tổ chức, cá nhân chỉ cần thông báo công bố hợp quy trên cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Sáng 14/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, với 432/448 tổng số đại biểu quốc hội tham gia biểu quyết tán thành.
Đảm bảo tích hợp, chia sẻ thông tin
Trước đó, báo cáo tiếp thu, giải trình dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật đã chỉnh sửa 31 điều, bổ sung 11 Điều mới, bãi bỏ 23 Điều. Nội dung các điều, khoản của dự thảo Luật đã thể chế hóa tương đối đầy đủ các chủ trương, chính sách mới của Đảng; đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu, sửa đổi, bổ sung Luật.
Về quản lý nhà nước về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật (Điều 7a dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý nội dung quản lý nhà nước tại khoản 2 Điều 1 của dự thảo Luật (Điều 7a được bổ sung) để bảo đảm phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và chỉnh lý quy định về trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ tại điểm b khoản 2 Điều 7a cho thống nhất, phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội.
Trước ý kiến đề nghị nên giao bộ quản lý chuyên ngành chủ động tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, ông Huy thông tin, dự thảo Luật đã quy định giao cho bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì thực hiện thống nhất trong suốt quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn và thể hiện như tại Điều 27 về trách nhiệm thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, Điều 32 về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật, Điều 33 về hồ sơ và nội dung thẩm định hồ sơ dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, Điều 35 về rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ quy chuẩn kỹ thuật.

Về cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng (Điều 8c dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc tích hợp, chia sẻ thông tin và kết nối với các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia vào khoản 5 Điều 8c, bảo đảm bảo mật và quyền truy cập theo phân cấp quản lý; giao Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành quy trình vận hành, tiêu chuẩn dữ liệu, tổ chức kiểm tra định kỳ việc tuân thủ liên thông giữa các ngành, các lĩnh vực, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã chỉnh lý và thể hiện như tại khoản 5 và khoản 6 Điều 8c.
Tăng tính linh hoạt trong quản lý nhà nước
Cũng theo ông Lê Quang Huy, về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật (Điều 32 dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị nên giao bộ quản lý chuyên ngành chủ động tổ chức thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Ý kiến khác đề nghị làm rõ trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan trong việc thẩm định quy chuẩn Việt Nam.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định thẩm quyền thẩm định quy chuẩn kỹ thuật cho các cơ quan ban hành quy chuẩn Việt Nam theo đề nghị của Chính phủ và thể hiện như tại Điều 27 về trách nhiệm thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, Điều 32 về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật, Điều 33 về nội dung thẩm định hồ sơ dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, Điều 35 về rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ quy chuẩn kỹ thuật nhằm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, tăng tính linh hoạt trong quản lý nhà nước, tiết giảm thời gian thẩm định, ban hành quy chuẩn Việt Nam.
Về công bố hợp quy (Điều 48 dự thảo Luật hợp nhất), một số ý kiến đề nghị bỏ quy định về công bố hợp quy để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, chi phí cho doanh nghiệp; ý kiến khác đề nghị không bãi bỏ mà chỉ điều chỉnh nội dung, thủ tục công bố hợp quy theo hướng rà soát, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn nhanh, hài hòa với quy chuẩn quốc tế; điện tử hoá quy trình công bố hợp quy.
Giải trình nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng công bố hợp quy bao gồm 2 hoạt động: Đánh giá sự phù hợp đối tượng của công bố hợp quy với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; Đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan chuyên ngành. Đánh giá hợp quy là việc xác định sản phẩm, hàng hóa có phù hợp với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong quy chuẩn kỹ thuật được áp dụng; đây là cơ sở pháp lý kỹ thuật để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; tạo niềm tin cho người tiêu dùng; phù hợp với yêu cầu cơ bản của các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau, các Hiệp định thương mại thế hệ mới.
Do đó, việc công bố hợp quy là biện pháp, công cụ cần thiết, quan trọng bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao thương hiệu của doanh nghiệp. Còn đăng ký bản công bố hợp quy là thủ tục hành chính để thông báo với cơ quan quản lý.
Để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, khắc phục phát sinh trùng lắp trong hoạt động đánh giá sự phù hợp, gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, dự thảo Luật đã quy định mở rộng việc sử dụng các kết quả đánh giá sự phù hợp làm cơ sở cho hoạt động công bố hợp quy (khoản 1 Điều 48).

Ngoài ra, miễn thực hiện công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quản lý chất lượng theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 1a Điều 48) để doanh nghiệp chỉ tuân thủ một quy trình, thay vì phải thực hiện hai quy trình như hiện nay, đồng thời, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong thực hiện thủ tục đăng ký bản công bố hợp quy, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về đăng ký hợp quy theo hướng tối giản, theo đó tổ chức, cá nhân chỉ cần thông báo công bố hợp quy trên cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng (khoản 2 Điều 45).
Về hiệu lực thi hành (Điều 70 dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị nghiên cứu để Luật có hiệu lực áp dụng sớm hơn, đồng thời, chọn lựa một số nội dung áp dụng sớm hơn thời điểm luật có hiệu lực, để tạo điều kiện cho các chính sách đổi mới, cải cách trong luật có hiệu quả ngay khi Luật được ban hành.
“Trên cơ sở thống nhất với Chính phủ, dự thảo Luật quy định hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026 và thể hiện như tại Điều 70,” ông Lê Quang Huy cho hay./.