Lịch sử tỉnh Trà Vinh - vị trí chiến lược vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Với đất đai phù sa trù phú, hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, cùng bờ biển dài, Trà Vinh là trung tâm phát triển nông nghiệp, thủy sản và giao thương đường biển của Đồng bằng sông Cửu Long.

Trà Vinh là một tỉnh ven biển nằm ở hạ lưu sông Cửu Long, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, mang vị trí địa-chính trị và địa-kinh tế quan trọng khi là cầu nối giữa các tỉnh Tây Nam Bộ và vùng biển Đông Nam Bộ, đồng thời gần tuyến giao thông hàng hải quốc tế.

Nơi đây được biết đến với vẻ đẹp yên bình của những cánh đồng lúa, những rặng dừa xanh mát và bản sắc văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Kinh, Khmer, Hoa, gắn liền với truyền thống lịch sử lâu đời và những đóng góp trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh Trà Vinh là thành phố Trà Vinh.

Vị trí địa lý

Trà Vinh là tỉnh đồng bằng nằm giữa hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, thuộc tọa độ địa lý từ 9°31'46" đến 10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến 106°36'04" kinh độ Đông.

Tỉnh Trà Vinh có phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Long (ranh giới dài 50km), phía nam giáp tỉnh Sóc Trăng (60km), phía đông giáp biển Đông (bờ biển dài 65km), phía tây giáp tỉnh Hậu Giang (45km).

Tỉnh có diện tích 2.358km2, dân số khoảng 1.009.168 người, xếp thứ 42 toàn quốc.

Trà Vinh giữ vai trò chiến lược trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với đất đai phù sa trù phú, hệ thống sông ngòi và kênh rạch dày đặc, cùng bờ biển dài, là trung tâm phát triển nông nghiệp, thủy sản và giao thương đường biển. Nằm ở vị trí cửa ngõ ra biển Đông, Trà Vinh là điểm kết nối quan trọng giữa đất liền miền Tây và các tuyến hàng hải quốc tế.

Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã.

Lịch sử tỉnh Trà Vinh

Tên gọi Trà Vinh có nguồn gốc từ tiếng Môn-Khmer cổ, ban đầu được gọi là Préah Trapeng hoặc Trah Păng.

Trong tiếng Khmer, từ Trapeng có nghĩa là vùng trũng, đầm lầy, hồ nước. Điều này phản ánh đặc điểm địa lý của Trà Vinh thời xa xưa - một vùng đất thấp, có nhiều ao hồ, đầm lầy do bồi đắp phù sa từ các nhánh sông.

Tên gọi Trà Vang từng xuất hiện trong các tài liệu lịch sử và hành chính, là cách phiên âm của Préah Trapeng sang tiếng Việt.

Qua thời gian, do ảnh hưởng của quá trình Việt hóa địa danh, Trà Vang dần được đọc trại thành Trà Vinh, trở thành tên gọi chính thức của tỉnh cho đến ngày nay.

Nhờ đất đai màu mỡ và hệ thống kênh rạch phong phú, Trà Vinh từ một vùng đất hoang sơ đã phát triển thành nơi hội tụ của cộng đồng người Kinh, Khmer và Hoa.

Khi đơn vị hành chính cấp tỉnh được thành lập, “Trà Vinh” được chọn làm tên gọi, phản ánh bản sắc văn hóa đa dạng và vai trò của vùng đất này trong lịch sử Nam Bộ.

Giai đoạn 1: từ năm 1732 đến năm 1900

Vùng đất và tên gọi "Trà Vang," tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.

Năm 1802, sau khi lên ngôi, Vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.

Năm 1803, Vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.

Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.

Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.

Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.

Bản đồ hành chính Nam Kỳ lục tỉnh. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang)

Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.

Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer ký nghị định đổi tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Từ đây Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành 3 tỉnh mới: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. Nghị định này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1900. từ đây, tên tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức trên các văn bản tiếng Pháp là Province de Trà Vinh.

Giai đoạn 2: từ năm 1900 đến năm 1992

Từ 1/1/1900, tên gọi tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức cho đến tháng 5/1951, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục , Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ đã ban hành Nghị định số 174/NB-51 ngày 27/6/1951 về việc sáp nhập 20 tỉnh Nam Bộ thành 11 tỉnh. Theo đó, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập lại thành 1 tỉnh Vĩnh Trà.

Từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ-Diệm đã tiến hành phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh miền Nam. Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, hai huyện Cầu Kè và Tiểu Cần được tách ra, ghép với hai huyện Trà Ôn và Tam Bình của Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Tam Cần (theo Sắc lệnh số 16-NV ngày 9/2/1956) và tách một phần đất của huyện Cầu Ngang để thành lập một quận mới là quận Long Toàn (theo Sắc lệnh số 143-NV ngày 22/10/1956).

Đầu năm 1957, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình. Tỉnh Tam Cần thành lập được gần một năm thì giải thể, ba quận của tỉnh Tam Cần và quận Vũng Liêm (của tỉnh Vĩnh Long) được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Bình (theo Nghị định số 3-ND/HC/ND ngày 3/1/1957).

Thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam Việt Nam; tháng 2/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo nghị định này ở miền Nam có 21 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập thành tỉnh Cửu Long.

Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VIII đã ra quyết định tách tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.

Ngày 5/5/1992, tỉnh Trà Vinh chính thức đi vào hoạt động và phát triển cho đến ngày nay.

Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định hợp nhất tỉnh Bến Tre, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh; lấy tên là tỉnh Vĩnh Long, trung tâm chính trị- hành chính đặt tại tỉnh Vĩnh Long hiện nay.

Đường giao thông ở huyện Trà Cú, địa phương cuối cùng của tỉnh Trà Vinh đạt chuẩn huyện nông thôn mới. (Ảnh: Thanh Hòa/TTXVN)

Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh và thành phố, trải dài từ Long An đến Cà Mau, với diện tích tự nhiên khoảng 40.548 km2, chiếm 12,25% diện tích cả nước.

Vùng này nằm ở hạ lưu sông Mekong, phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông và Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp vịnh Thái Lan.

Trà Vinh, với bờ biển dài 65km, là một trong những tỉnh có vai trò quan trọng trong giao thương đường biển và phát triển thủy sản.

Với đặc điểm đất phù sa ngọt màu mỡ và hệ thống sông ngòi dày đặc, Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất Việt Nam, đồng thời nổi tiếng với các loại cây ăn trái như dừa, xoài, nhãn. Đây cũng là khu vực giàu tiềm năng thủy sản và du lịch sinh thái./.