Lịch sử Đà Nẵng: Hành trình trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương
Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không chỉ là một thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền với công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỷ trước.
Đà Nẵng là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, nằm tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ.
Đây là thành phố lớn nhất của miền Trung, đóng vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế-xã hội lớn của miền Trung và là hạt nhân quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Thành phố Đà Nẵng hiện là đô thị loại I, là thành phố trung tâm cấp vùng và cấp quốc gia.
Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không chỉ là một thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền với công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỷ trước.
Sau này, Đà Nẵng cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước vừa qua.
Vị trí địa lý
Thành phố Đà Nẵng phía Bắc giáp tỉnh thành phố Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm thành phố cách thủ đô Hà Nội 764km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 964km về phía Nam, cách thành phố Huế 108km về hướng Tây Bắc. Đây là một thành phố vừa có núi cao, sông sâu, đồi dốc trung du xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp.
Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông huyết mạch Bắc Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên, là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây đi qua các nước Myanma, Lào, Thái Lan, Việt Nam.
Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan ở miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,8 °C; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình 18-23 °C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20 °C.
Lịch sử hình thành
Theo một giả thuyết, trong ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là “sông lớn,” “cửa sông lớn.”
Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ được vẽ từ thế kỷ XVI trở đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình thành tên gọi, tính chất cửa sông lớn, tính chất cảng thị đã được lưu ý như một điểm quan trọng của thành phố.
Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền.
Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.
Thời kỳ các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa Từ nửa đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn đã tổ chức “đội Hoàng Sa” (lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi) ra quần đảo Hoàng Sa (với khoảng thời gian từ sáu đến tám tháng mỗi năm) để thu lượm hàng hóa trôi dạt trên biển, đánh bắt hải sản quý hiếm; đồng thời, đo vẽ sơ đồ, hải trình, trồng cây và dựng mốc trên quần đảo.
Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.

Với vị trí chiến lược quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của kinh đô Phú Xuân, Đà Nẵng là một quân cảng và một thương cảng quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt.
Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện).
Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.
Năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn đổi tên là thành Điện Hải.
Năm 1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại Cửa Hàn, còn các biển khác không được tới buôn bán” thì Đà Nẵng trở thành một thương cảng lớn bậc nhất miền Trung. Từ thời điểm này trở đi, thay vì cửa Đại Chiêm như trước đây, các quan hệ về buôn bán, ngoại giao ngày một tập trung dần vào một đầu mối chính của miền Trung là cửa biển Đà Nẵng. Nhờ vị trí và vai trò ngày càng quan trọng với miền Trung, Đà Nẵng bắt đầu phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp địa phương như những ngành sửa chữa tàu thuyền, sơ chế nông lâm sản, các dịch vụ thương mại liên quan.
Vua Thiệu Trị cũng đặc biệt quan tâm đến việc an ninh cảng biển tại Đà Nẵng và đưa ra những quy định chặt chẽ quản lý người phương Tây đến buôn bán tại đây.
Nhà Nguyễn tiếp tục thực thi nhiều chính sách khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1816, Vua Gia Long ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình.
Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng.
Ngày 25/8/1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.
Ngày 17/8/1887, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 3/9/1887, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó".
Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương thì Pháp tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam với tính cách là một nhượng địa (concession) và đổi tên thành Tourane. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế – tuy thị trấn này nằm trong xứ Trung Kỳ.
Đầu thế kỷ 20, Tourane được Pháp xây dựng thành một đô thị hiện đại theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ thuật sản xuất được đầu tư mạnh mẽ, các ngành nghề sản xuất và kinh doanh phát triển nhanh chóng, biến Tourane thành một trong ba trung tâm thương mại quan trọng nhất cả nước, cùng với Hải Phòng và Sài Gòn.
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại.
Tháng 3/1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng được Mỹ ngụy ấn định là thành phố trực thuộc Trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật.
Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng: sân bay, cảng, kho bãi, đường sá, công trình công cộng, cơ sở thông tin liên lạc, lập tín dụng ngân hàng. Khu kỹ nghệ Hòa Khánh sản xuất oxygen, acetylene, bột giặt, xay xát, dệt... ở thời kỳ này công nghiệp được phát triển ở mức độ cao hơn: các khu kỹ nghệ thay thế cho công trường thủ công.
Trong kháng chiến chống Mỹ, các căn cứ địa ở Quảng Nam-Đà Nẵng trở thành nơi đóng trú của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo các cấp. Với vai trò là địa bàn đóng trú của các cơ quan đầu não kháng chiến, căn cứ địa cách mạng ở Quảng Nam -Đà Nẵng cũng là nơi diễn ra nhiều hội nghị đề ra những chủ trương, quyết định quan trọng của cuộc kháng chiến.
Đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã huy động lực lượng thiện chiến nhất cùng các phương tiện chiến tranh và thủ đoạn tàn bạo nhất nhưng không thể nào thực hiện được mục tiêu xóa bỏ các căn cứ địa, tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến.

Từ 1975: Không ngừng vươn lên
Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng (là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng) bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh. Mặc dù còn lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành phố đã đạt nhiều thành quả, nhất là thời kỳ đổi mới, sau 1986.
Ngày 6/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương.
Thành phố Đà Nẵng được tái lập trực thuộc Trung ương, gồm 7 đơn vị hành chính quận, huyện: Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và 2 huyện Hoà Vang, Hoàng Sa; có diện tích 1.284,9 km2, số dân 663.115 người, với 47 phường, xã.
Ngày 1/1/1997, với sự kiện lịch sử chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã mở ra thời kỳ phát triển mới đối với Đảng bộ và Nhân dân Đà Nẵng.
Thành phố không ngừng phát triển nhanh, tăng trưởng mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện mạnh mẽ; nhanh chóng vươn mình thành đô thị loại I cấp quốc gia theo Quyết định số 145/2003/QĐ/TTg ngày 15-7-2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Quần đảo Hoàng Sa - Phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam
Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn là vô chủ.
Việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo này là rõ ràng, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành - nguyên tắc chiếm hữu thật sự - của Công pháp quốc tế.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các hòn đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII. Lúc bấy giờ, hai quần đảo được thể hiện liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa và ban đầu được người Việt gọi chung một tên nôm là Bãi cát Vàng (thể hiện trong bản đồ cổ của Việt Nam mang tên “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” do nhà địa lý Đỗ Bá biên soạn và hoàn thành năm 1686).
Sinh thời nhà bác học Lê Quý Ðôn (1726-1784) trong cuốn “Phủ Biên tạp lục” viết về phủ Quảng Nghĩa, xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn đã nói rất kỹ về Bãi cát Vàng: "...Ngoài biển về phía Ðông Bắc, có nhiều cù lao, có đến hơn 130 hòn, cách nhau qua biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có hồ nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn. Trên đảo có vô số tổ yến, các giống chim có hàng ngàn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh, trên bãi cát vật lạ rất nhiều..."
“Ðại Nam thực lục tiền biên” soạn năm 1754 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát còn nói rõ hơn về Hoàng Sa và Trường Sa: "Ở đấy có hơn 300 bãi cát, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục là Vạn lý Trường Sa, trên đảo có giếng nước ngọt."
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1782-1840) là bộ bách khoa thư lớn của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 cũng nói rõ: “Các đời chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh thay phiên nhau đi lấy những hải vật. Hằng năm cứ đến tháng 3, khi nhận được mệnh lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ tìm kiếm các thứ… Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn đến thành Phú Xuân, đưa nộp.”
Theo Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật… Chúng ta cũng tìm được trong các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa. Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, rõ ràng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
Như vậy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời về hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều và khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ và luôn duy trì quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong “Bộ Atlas thế giới” của Philippe Vandermaelen (1795-1869) - nhà địa lý học kiệt xuất, thành viên Hội Địa lý Paris, xuất bản năm 1827 tại Brussels, Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110 đều có ghi chú rõ ràng, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) thuộc chủ quyền của Đế chế An Nam (Empire d’An-nam).
Đặc biệt, tờ bản đồ Partie de la Cochinchine (tờ số 106-châu Á) là bản đồ đầu tiên đã vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí (kinh độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa.
Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, minh chứng một cách rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa đã được quốc tế ghi nhận.
Hơn 50 năm trôi qua kể từ ngày 19/1/1974, khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép, hai tiếng Hoàng Sa vẫn luôn là nỗi đau đáu của người Việt./.