Hiệp định CPTPP: Tăng hợp tác kinh tế thương mại với các đối tác châu Mỹ
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang các thị trường CPTPP khu vực châu Mỹ đã tăng 56,3%, từ 8,7 tỷ USD năm 2018 lên đến 13,6 tỷ USD năm 2023.
Ngày 2/10, tại Hà Nội, Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ, Bộ Công Thương đã phối hợp tổ chức Hội thảo "CPTPP: Tăng cường hợp tác kinh tế-thương mại với các đối tác châu Mỹ."
Hội thảo được tổ chức kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến, nhằm đánh giá kết quả sau 5 năm thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), từ đó trao đổi và tìm kiếm những giải pháp thiết thực giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả Hiệp định, tăng cường kết nối kinh tế-thương mại với các đối tác châu Mỹ.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long cho biết quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam với Châu Mỹ đã không ngừng phát triển trong những năm gần đây.
Sau 5 năm kể từ khi có hiệu lực vào tháng 1 năm 2019, CPTPP đã đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại của Việt Nam với các thị trường khu vực Châu Mỹ, đặc biệt là các thị trường thành viên gồm Canada, Mexico, Chile, và Peru (trong đó Canada, Mexico và Peru là các thị trường lần đầu tiên có quan hệ FTA với Việt Nam).
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang các thị trường CPTPP khu vực châu Mỹ đã tăng 56,3%, từ 8,7 tỷ USD năm 2018 lên đến 13,6 tỷ USD năm 2023 mặc dù đây là giai đoạn có nhiều thách thức như suy thoái kinh tế toàn cầu và dịch COVID-19.
Trong số đó, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này tăng gần gấp đôi, từ 6,3 tỷ USD vào năm 2018 lên 11,7 tỷ USD năm 2023.
Xuất siêu ở các thị trường này cũng tăng gần gấp 3 lần, từ 3,9 tỷ USD lên 11,01 tỷ USD, góp phần tích cực cho ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua.
Kết quả này đã góp phần đáng kể vào thương mại của Việt Nam với khu vực châu Mỹ nói chung, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt 137,7 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 114, 5 tỷ USD.
Bên cạnh những con số ấn tượng nêu trên, việc tham gia CPTPP đã thúc đẩy Việt Nam cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng minh bạch hơn. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp vận hành chuyên nghiệp hơn mà còn góp phần nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài.
Mỗi quan hệ giữa Việt Nam và các nước Châu Mỹ đã và đang được củng cổ qua các cam kết chiến lược.
Đại sứ Shawn Steil - Đại sứ Canada tại Việt Nam, cho biết Hiệp định đã mang lại lợi ích cho cả người dân, doanh nghiệp hai nước, mở ra những cơ hội hợp tác đầu tư lớn cho cả hai bên. CPTPP là đòn bẩy nâng cao kim ngạch thương mại hai nước Việt Nam-Canada. Hội thảo là cơ hội để nhìn lại 5 năm và đề ra những phương hướng hợp tác mới.
Châu Mỹ là thị trường rộng lớn và có sự liên kết chặt chẽ với nhau thông qua các khối thương mại tự do đan xen như Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (USMCA), Liên minh Thái Bình Dương (PA), Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR).
Tận dụng các lợi thế mà Hiệp định CPTPP mang lại, cùng với các vị trí cửa ngõ thuận lợi các nước thành viên trong khu vực là Canada, Mexico, Chile và Peru, các doanh nghiệp có thể xem xét thông qua việc xuất khẩu và đầu tư sản xuất tại các nước nêu trên để mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sang khu vực thị trường sôi động và đầy tiềm năng này.
Tại hội thảo, các chuyên gia, diễn giả đã chia sẻ nhiều thông tin hữu ích, thảo luận, tìm giải pháp giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và châu Mỹ xây dựng kế hoạch kinh doanh hiệu quả.
Thông qua hội thảo, các doanh nghiệp có thể nắm bắt thông tin thị trường, tìm kiếm các giải pháp logistics mới, hiệu quả, và gia tăng khả năng tận dụng các ưu đãi thuế quan trong CPTPP; tăng cường kết nối để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là của các nước thành viên CPTPP.
Bên cạnh đó, Hội thảo còn có sự chia sẻ và trình bày một cách trực tiếp các thông tin rất hữu ích từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đến từ Mexico (Tập đoàn Coppel) và Chile (Tập đoàn Sodimac) về lợi thế hợp tác với các đối tác thành viên CPTPP; kế hoạch hợp tác kinh doanh với Việt Nam trong bối cảnh Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương; kế hoạch mở rộng hợp tác kinh doanh với khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Việt Nam nói riêng; nhu cầu về lĩnh vực, số lượng đặt hàng cụ thể của các tập đoàn này.
Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), bày tỏ Hiệp định CPTPP đã tạo ra cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt Nam trong việc tiếp cận các thị trường mới như Canada, Australia, New Zealand và cũng giúp doanh nghiệp thích ứng với cách thức mua hàng của nhà nhập khẩu trong khối CPTPP.
Hiệp định đặt ra yêu cầu về chứng nhận xuất xứ, giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản xuất từ nguyên liệu đầu vào cũng như thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Theo ông Vũ Đức Giang, Vitas đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối chuỗi cung ứng, liên kết các doanh nghiệp trong nước và các nhà sản xuất, đầu tư trong khối CPTPP.
Cùng đó, xây dựng chiến lược phát triển đa dạng hóa thị trường, khách hàng và ứng dụng công nghệ, tự động hóa, năng lượng tái tạo để thích ứng với yêu cầu của các nước trong khối CPTPP.
Ngoài ra, Vitas đề xuất và thúc đẩy Chính phủ ký kết Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2030 và 2035, hướng tới phát triển bền vững; tổ chức nhiều hội thảo, tập huấn để hướng dẫn các doanh nghiệp thích ứng với yêu cầu của các nhà nhập khẩu trong khối CPTPP.
Ông Vũ Đức Giang cũng chỉ ra rằng so với Bangladesh, Việt Nam đối mặt với chi phí lao động cao hơn và áp lực về các khoản bảo hiểm xã hội, y tế. Bangladesh được hưởng ưu đãi thuế quan do là nước kém phát triển, trong khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Tuy nhiên, Việt Nam đang sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn so với Bangladesh nên không lo ngại về việc các đơn hàng chuyển sang Việt Nam.
Đặc biệt, CPTPP tạo ra áp lực nhưng cũng tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp khi chứng nhận xuất xứ từ sợi, cho tới vải. Hơn nữa, CPTPP cũng tạo cán cân thương mại của Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trường nội khối CPTPP, tiếp cận với doanh nghiệp trong khối. Chính điều này tạo ra sự tăng trưởng hàng năm của doanh nghiệp Việt hiện nay.
Ngoài ra, CPTPP cũng tạo ra sự tăng trưởng rất rõ cho ngành dệt may, xuất khẩu sang các nước nội khối và đặc biệt là châu Mỹ. Trong năm 2023 toàn ngành dệt may của Việt Nam xuất khẩu đạt 40 tỷ USD.
Riêng 9 tháng năm 2024 đạt 38,4 tỷ USD; trong đó, đến từ những thị trường lớn, trọng điểm của ngành dệt may Việt Nam như Mỹ 39-40%; CPTPP chiếm 16%, Nhật Bản, EU, Trung Quốc.
Tổng xuất khẩu của dệt may Việt Nam vào 104 thị trường nhưng tất cả các thị trường này đều là thị trường nhỏ, còn lại là thị trường trọng điểm EU, Trung Quốc.
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, cho biết các nước thành viên Hiệp định CPTPP đang tiến hành rà soát tổng thể toàn bộ việc thực thi Hiệp định nhằm tạo ra không gian hợp tác mới.
Quá trình thực thi hiệp định đã cho thấy nhiều dư địa để tăng trưởng và tiềm năng trao đổi thương mại còn rất lớn, trong đó, không gian hợp tác giữa Việt Nam với các nước CPTPP còn rất nhiều. Bên cạnh đó, việc Vương quốc Anh gia nhập CPTPP và nhiều nền kinh tế khác cũng xin gia nhập sẽ tạo thêm cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, để tận dụng được tối đa lợi thế của CPTPP, ông Ngô Trung Khanh khẳng định Việt Nam thực sự còn rất nhiều việc phải làm. Để nhận diện rõ nhất tác động của CPTPP lên thương mại, cần phải so sánh giao thương của Việt Nam với những nước đó, khi chưa ký kết FTA.
Nhìn từ mặt tích cực, xuất khẩu từ Việt Nam vào Canada, Mexico và Peru tăng trưởng tốt. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, máy vi tính, điện thoại, giày dép, hạt tiêu tăng trưởng tương đối tích cực.
Dù vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với ba thị trường mới này vẫn chỉ chiếm khoảng 2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chưa kể, tăng trưởng thương mại với nhóm nước này chưa bền vững: Xuất nhập khẩu năm 2019 chiếm 1,2% tổng giá trị thương mại Việt Nam với thế giới, lên 1,6% vào năm 2020, 2% vào năm 2021, nhưng lại giảm xuống 1,8% vào năm 2022, và giảm tiếp còn 1,7% vào năm 2023.
Đáng chú ý, thị phần một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tại một số thị trường quan trọng giảm. Thủy sản vào năm 2019 có thị phần 6,4% tại Canada nhưng đến năm 2023 lại chỉ còn 5,6%.
Khắc phục những rào cản trên, Phó Vụ trưởng Ngô Chung Khanh đề nghị doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ hơn thông tin về Hiệp định cũng như cách thức tận dụng CPTPP để quan tâm hơn đến thị trường của nhau. Đối với các đối tác châu Mỹ, khoảng cách địa lý xa xôi khiến chi phí gia tăng cũng là một rào cản đáng kể để quyết định của các doanh nghiệp Việt.
Cụ thể, cần có cơ chế hợp tác chuyên sâu theo lĩnh vực, cơ chế hợp tác kết nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các nước châu Mỹ; xây dựng kết nối doanh nghiệp Việt với các nước để mở rộng ý tưởng hệ sinh thái tận dụng FTA, đồng thời tiếp tục tăng cường định hướng xuất khẩu xác định lĩnh vực trọng tâm, không dàn trải./.