Giá điện, giá nhà ở thuê tăng kéo CPI tháng 11 tăng 0,13%

Trong mức tăng 0,13% của CPI tháng 11/2024 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Giá điện sinh hoạt tăng 2,03% so với tháng trước do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024. (Nguồn: EVN)

Tổng cục Thống kê vừa công bố sáng 6/12, chỉ số giá điện sinh hoạt, giá nhà ở thuê và vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,13% so với tháng trước.

So với tháng 12/2023, CPI tháng 11 tăng 2,65% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,77%.

Trong mức tăng 0,13% của CPI tháng 11/2024 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Cụ thể, 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với mức tăng 0,87%, chủ yếu tăng ở một số mặt hàng sau: giá dầu hỏa tăng 3,57% so với tháng trước do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá gas tăng 2,25% do từ ngày 1/11/2024, giá gas trong nước điều chỉnh tăng theo giá gas thế giới.

Bên cạnh đó, giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,62% do nhu cầu tăng vào dịp cuối năm; giá thuê nhà tăng 0,45% do giá mua bán nhà đất và chung cư tăng cao; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,28% do giá ximăng, giá thép tăng trong bối cảnh giá điện, than, bao bì tăng; giá điện sinh hoạt tăng 2,03% so với tháng trước do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,29%; trong đó, giá đồ trang sức tăng 2,35% theo giá vàng trong nước; sửa chữa đồng hồ đeo tay tăng 0,12%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,1%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,07%.

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,26%, chủ yếu do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống và tỷ giá USD tăng. Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,21% do chi phí nhân công, chi phí vật liệu và nhu cầu mua sắm tăng khi thời tiết chuyển mùa…

Ngược lại, 3 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: nhóm giao thông giảm 0,07% do: giá vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 11,04%; vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 4,1% do nhu cầu của người dân giảm; giá xăng giảm 0,14% so với tháng trước; giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,13%; giá xe ô tô mới giảm 0,04%.

Bên cạnh đó, có một số mặt hàng tăng giá: giá dầu diezen tăng 2,96% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá dầu mỡ nhờn tăng 0,1%; giá sửa chữa xe máy tăng 1,03% so với tháng trước; sửa chữa xe đạp tăng 0,55%; phụ tùng khác của xe máy tăng 0,27%; lốp, săm xe máy tăng 0,25%; xe máy tăng 0,24%; lốp, săm xe đạp tăng 0,21%; phụ tùng khác của xe đạp tăng 0,15%; xe đạp tăng 0,14%.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,22%; trong đó, chỉ số giá nhóm lương thực tăng 0,33%; thực phẩm giảm 0,5% (góp phần làm CPI giảm 0,1 điểm phần trăm); nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,26%.Cùng với đó, nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,3%; trong đó, giá máy điện thoại di động thông thường giảm 0,99%; giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,46%; giá máy điện thoại cố định giảm 0,04%; phụ kiện máy điện thoại thông minh và máy tính bảng giảm 0,03%. Ở chiều ngược lại, giá sửa chữa điện thoại tăng 0,47% do chi phí nhân công tăng.

Vàng trang sức được bày bán tại một cửa hàng kinh doanh vàng Bảo Tín Minh Châu. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra, giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 27/11/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.696,8 USD/ounce, tăng 0,12% so với tháng 10/2024.

Đầu tháng 11/2024, giá vàng thế giới giảm đáng kể sau khi ứng cử viên Đảng cộng hòa Donald Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ do các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục và chờ đợi các chính sách kinh tế mới từ Tổng thống đắc cử.

Tuy nhiên, đợt giảm này chỉ kéo dài trong thời gian ngắn, giá vàng nhanh chóng phục hồi trong các tuần sau đó do các yếu tố như căng thẳng địa chính trị và kỳ vọng về việc giảm lãi suất từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 2,26% so với tháng trước; tăng 32,91% so với tháng 12/2023 và tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,42%.

Đối với chỉ số giá USD, tính đến ngày 27/11/2024, chỉ số giá USD trên thị trường quốc tế đạt mức 105,47 điểm, tăng 2,52% so với tháng trước do các kỳ vọng về chính sách tiền tệ của Fed và dữ liệu kinh tế Mỹ tích cực, cùng với căng thẳng địa chính trị leo thang ở một số quốc gia đã làm tăng nhu cầu đối với đồng USD như một tài sản an toàn.

Trong nước, giá USD bình quân trên thị trường tự do dao động quanh mức 25.483 VND/USD. Chỉ số giá USD tháng 11/2024 tăng 1,76% so với tháng trước; tăng 4,22% so với tháng 12/2023 và tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024 tăng 4,97%.

Tổng cục Thống kê cho biết bình quân 11 tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,69%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản./.