Đột phá tư duy từ bảo vệ sang phát triển giá trị kinh tế “tài sản vô hình”
Việc phát triển tài sản vô hình là yếu tố sống còn để bắt kịp xu hướng kinh tế số toàn cầu đồng thời tạo động lực mạnh mẽ cho đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sống và giảm bất bình đẳng xã hội.
Lần đầu tiên trong lịch sử các văn kiện của Đảng - “tài sản vô hình” được xác định là một nguồn lực then chốt, đòi hỏi phải thể chế hóa đầy đủ các quyền về sở hữu, định đoạt và tài chính hóa.
Đây là tinh thần chủ đạo của Nghị quyết 68-NQ/TW (về phát triển kinh tế tư nhân) và cũng là trọng tâm của diễn đàn “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo – Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tạp chí Luật sư Việt Nam, Công ty Luật Trương Anh Tú (TAT Law Firm) đồng tổ chức, ngày 11/9.
Tại đây, các chuyên gia có chung quan điểm là phải chuyển đổi tư duy từ "bảo vệ quyền" sang "phát triển giá trị" của loại tài sản đặc biệt này.
Đóng góp 7% GDP và tiềm năng bứt phá
Tại Việt Nam, tài sản vô hình đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế. Tiến sỹ Vũ Ngọc Dương, Trường Đại học Luật Hà Nội, cho biết loại tài sản này dự kiến đóng góp khoảng 7% GDP vào năm 2024, chủ yếu thông qua các ngành công nghiệp sáng tạo như phần mềm, thương mại điện tử và fintech.
Trên thực tế, các tập đoàn lớn (như Viettel, FPT và Tiki…) đã và đang khai thác hiệu quả tài sản vô hình, bao gồm dữ liệu khách hàng, phần mềm và danh tiếng thương hiệu, để xây dựng và phát triển các nền tảng số. Thậm chí, tài sản vô hình (như dữ liệu số và phần mềm) đang góp phần nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ công thiết yếu của người dân, từ giáo dục trực tuyến, y tế số đến dịch vụ tài chính qua các nền tảng (như MoMo, Viettel Money…) và đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa.
Theo ông Dương, việc phát triển tài sản vô hình không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giảm bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ. Điều này cũng phù hợp với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Đảng, nhấn mạnh vai trò của tài sản vô hình trong chuyển đổi số quốc gia, hướng tới xây dựng nền kinh tế số và chính phủ số.

Bên cạnh đó, Việt Nam sở hữu lợi thế dân số trẻ với hơn 50% dưới 35 tuổi và lực lượng lao động có trình độ ngày càng tăng. Phát triển các tài sản vô hình (như phần mềm và AI) sẽ tạo ra hàng ngàn cơ hội việc làm mới trong các ngành công nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư nước ngoài và giúp Việt Nam chuyển dịch từ kinh tế gia công sang sản xuất các sản phẩm công nghệ cao (như chip bán dẫn và phần mềm). Đây là hướng đi cấp thiết để bắt kịp xu hướng kinh tế số toàn cầu (như EU với Quy định MiCA 2023 hay Trung Quốc với PIPL 2021) đang đẩy mạnh phát triển tài sản số và dữ liệu số.
"Tài sản vô hình là nền tảng của đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế số và là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Chính vì vậy, trong xu hướng kinh tế chung toàn cầu, thúc đẩy phát triển tài sản vô hình là vấn đề vô cùng bức thiết với Việt Nam hiện nay", Tiến sỹ Vũ Ngọc Dương khẳng định.
Luật pháp chưa đủ mạnh
Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, chỉ rõ vấn đề cốt lõi tài sản vô hình không định giá được thì sẽ không phát triển. Ông nhấn mạnh trong nền kinh tế tri thức, sự khác biệt không nằm ở quy mô nhà xưởng mà ở chỉ số sáng tạo và giá trị tài sản trí tuệ (IP).
Dẫn chứng cụ thể, ông Tú cho biết: "Một thương hiệu cà phê có thể được bán với giá gấp 20 lần nhà xưởng của nó. Một phần mềm logistics trị giá 10 triệu USD có thể không có bất kỳ tài sản vật chất nào – chỉ là dòng mã và một đội kỹ sư. Nhưng tại Việt Nam, các ngân hàng chưa dựa trên giá trị thương hiệu hay bản quyền để cho doanh nghiệp vay vốn."
Theo ông Tú, vấn đề không nằm ở thị trường mà ở luật pháp chưa đủ mạnh để công nhận và tài chính hóa các tài sản vô hình. Do đó, ông đề xuất ba trụ cột chính sách cần được thể chế hóa. Đó là ghi nhận tài sản sở hữu trí tuệ (IP) là tài sản được pháp luật cho phép hạch toán, góp vốn hoặc làm tài sản bảo đảm. Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các chuẩn mực định giá và ghi nhận IP trong báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, hình thành thị trường và hệ sinh thái định giá, giao dịch IP, bao gồm xây dựng trung tâm định giá IP quốc gia, phát triển sàn giao dịch IP và quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên IP. Mặt khác, việc bảo vệ quyền sở hữu mạnh mẽ bằng cách xử lý nghiêm các vi phạm IP, kiện toàn tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ và cơ chế thi hành án IP minh bạch, hiệu quả, mang tính răn đe.

"Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi cần một bước ngoặt triết lý từ luật bảo hộ quyền sang luật phát triển tài sản. Điểm mới căn bản của lần sửa đổi này là sự dịch chuyển tư duy: Không chỉ bảo vệ quyền mà phát triển giá trị; Không chỉ đăng ký mà vận hành và tài chính hóa; Không chỉ xử lý vi phạm mà tạo động lực đầu tư vào sáng tạo," Luật sư Trương Anh Tú nhấn mạnh.
Hoàn thiện hành lang pháp lý
Cũng tại diễn đàn, Tiến sỹ Vũ Ngọc Dương bổ sung các kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn đọng. Ông thừa nhận hành lang pháp lý của Việt Nam về tài sản vô hình đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, dữ liệu số và tài sản số, phù hợp với định hướng của Nghị quyết 57-NQ/TW. Các văn bản về Bộ luật Dân sự 2015, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2022) và Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 (dự kiến) đã tạo nền tảng cho đổi mới sáng tạo và kinh tế số.
Tuy nhiên, ông Dương cũng chỉ ra những hạn chế trong thực thi còn yếu kém, “vùng xám” pháp lý, chi phí tuân thủ cao và thiếu nhân lực, điều này đòi hỏi các cải cách đồng bộ. Cụ thể, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường thực thi. Nâng cao năng lực của Cục Sở hữu Trí tuệ và các cơ quan thực thi, áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm nghiêm khắc (học hỏi kinh nghiệm từ EU và Hoa Kỳ). Hoàn thiện quy định về tài sản số, ban hành các nghị định hướng dẫn chi tiết cho Luật Công nghiệp công nghệ số 2025, đặc biệt về tiền mã hóa và NFT (Non-Fungible Token), để giảm “vùng xám” pháp lý, (tham khảo Quy định MiCA của EU).
Thêm vào đó, ông Dương cũng nhấn mạnh việc giảm chi phí tuân thủ, thông qua xây dựng các quy định linh hoạt để giảm gánh nặng bảo vệ dữ liệu cho các startup, khuyến khích đổi mới sáng tạo, đảm bảo cân bằng giữa bảo vệ quyền riêng tư và phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng các chương trình đào tạo STEM và pháp lý về sở hữu trí tuệ, hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu (như Viettel và FPT) để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao./.