Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì “lấy dân làm gốc” trong xây dựng đất nước
Một trong những dấu ấn của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng đã thực hành cải thiện đời sống nhân dân, luôn lấy “trung với Đảng, hiếu với dân” làm mục tiêu cơ bản và kiên trì “lấy dân làm gốc.”
Kể từ khi thành lập năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Vai trò lịch sử của Đảng xuyên suốt toàn bộ quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ ách thống trị của thực dân sang độc lập, từ nghèo nàn, lạc hậu sang phồn vinh.
Trao đổi với phóng viên TTXVN tại Bắc Kinh nhân dịp Việt Nam kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh (2/9/1945- 2/9/2025), Giáo sư, Tiến sỹ Phan Kim Nga - thành viên Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Marx thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam - cho rằng vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện trên nhiều phương diện.
Cụ thể, Đảng Cộng sản Việt Nam là “người tiên phong” của phong trào giải phóng dân tộc, phá vỡ xiềng xích thực dân, đặt nền móng cho độc lập dân tộc. Vào thời khắc then chốt khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp và sau đó là cuộc xâm lược của phát xít Nhật, Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã kết hợp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin với điều kiện cụ thể của đất nước, dẫn đầu giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, vạch rõ cương lĩnh cách mạng “lật đổ chủ nghĩa đế quốc và phong kiến,” phá vỡ sự kìm kẹp về tư tưởng và âm mưu chia rẽ dân tộc của chính quyền thực dân.
Với tư cách là người lãnh đạo nòng cốt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thức tỉnh ý thức dân tộc bằng lời kêu gọi “tất cả đồng bào, hãy cùng nhau đoàn kết”, tập hợp các lực lượng phản thực dân đang tản mác thành một “dòng thác” cách mạng thống nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “hạt nhân” đoàn kết ý chí đấu tranh của toàn dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính trong các cuộc đấu tranh vũ trang. Trước sự đàn áp tàn bạo của các thế lực thực dân, Đảng đã kiên quyết lãnh đạo thành lập lực lượng vũ trang cách mạng (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), xây dựng sức mạnh thông qua chiến tranh du kích trường kỳ.
Năm 1945, nắm bắt thời cơ do cục diện quốc tế biến động sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Đảng đã phát động Cách mạng tháng Tám, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và triều đại phong kiến. Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chấm dứt gần một thế kỷ thuộc địa, giành độc lập dân tộc. Đây là sứ mệnh lịch sử cơ bản nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam ở thời điểm đó.
Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam còn là "xương sống" của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trước những thách thức nghiêm trọng từ sự trở lại của Pháp và sự can thiệp quân sự của Mỹ sau khi lập quốc, Đảng luôn kiên định niềm tin vào độc lập dân tộc, huy động sức mạnh của toàn dân tộc bằng đường lối “toàn dân kháng chiến,” đập tan sự phản công của các thế lực thực dân bằng những chiến thắng quyết định như Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và cuối cùng là thống nhất đất nước vào năm 1975.
Chính sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít nước trong phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh sau Chiến tranh Thế giới thứ hai giành được độc lập hoàn toàn bằng đấu tranh vũ trang.
Cũng theo Giáo sư, Tiến sỹ Phan Kim Nga, Đảng là “người cầm lái” xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai phá con đường phát triển phù hợp với điều kiện đất nước và thúc đẩy hiện đại hóa đất nước. Sau khi đất nước thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước nhiệm vụ to lớn là chuyển đổi từ một đảng cách mạng sang một đảng cầm quyền. Qua quá trình khai phá gian nan, Đảng đã mở ra con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện đất nước.
Nữ Giáo sư cũng cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và thúc đẩy hội nhập quốc tế trong cải cách. Vào cuối những năm 1980, trước sự cứng nhắc của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung và những khó khăn kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam - với bản lĩnh chính trị to lớn - đã đề ra đường lối Đổi Mới để phá vỡ những ràng buộc của mô hình truyền thống.
Bằng việc làm rõ vị thế của “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,” áp dụng cơ chế thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời giữ vững vị thế chủ đạo của sở hữu công, Đảng đã tạo nên bước chuyển đổi kinh tế nhịp nhàng, giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 50% năm 1993 xuống dưới 2% năm 2024 và tạo nên những kinh nghiệm quan trọng trong chuyển đổi kinh tế cho các nước đang phát triển.
Không chỉ thế, Đảng Cộng sản Việt Nam còn là “kiến trúc sư” cốt lõi của xây dựng thể chế. Đảng đã lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông qua Hiến pháp, là “hạt nhân lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Đảng cũng đã thiết lập các cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của đất nước. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tinh gọn bộ máy nhà nước và đẩy mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý hành chính thông qua đổi mới thể chế, tạo ra sự bảo đảm vững chắc về thể chế cho phát triển kinh tế-xã hội.
Một trong những dấu ấn khác của Đảng Cộng sản Việt Nam - theo Giáo sư, Tiến sỹ Phan Kim Nga - là Đảng đã thực hành cải thiện đời sống nhân dân. Đảng luôn lấy “trung với Đảng, hiếu với dân” làm mục tiêu cơ bản và kiên trì tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thông qua các biện pháp như phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân và thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đời sống của người dân Việt Nam đã không ngừng được cải thiện. Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới.
Bên cạnh đó, Đảng còn là “chất keo” gắn kết dân tộc. Đảng duy trì sự thống nhất đất nước, ổn định xã hội, xây dựng nền tảng vững chắc cho phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc nên Đảng luôn là lực lượng nòng cốt trong việc duy trì sự thống nhất dân tộc và xây dựng đồng thuận quốc gia.
Đảng cũng là “người kết hợp” tư tưởng. Dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, Đảng đã xây dựng hệ giá trị xã hội chủ nghĩa mang bản sắc Việt Nam, kế thừa lý tưởng dân tộc “độc lập, tự do, hạnh phúc,” đồng thời mang đậm dấu ấn xã hội chủ nghĩa đương đại, trở thành sợi dây tinh thần chung của mọi dân tộc và mọi giai cấp xã hội.
Trong các công tác khác, Đảng lãnh đạo mặt trận thống nhất. Đảng đã xây dựng một mặt trận thống nhất yêu nước rộng rãi, đoàn kết các đảng phái dân chủ, các nhóm tôn giáo, đại diện các dân tộc thiểu số và các lực lượng xã hội khác, hình thành khuôn khổ chính trị “đoàn kết dân tộc.”
Trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, Đảng nhấn mạnh sự bình đẳng và phát triển chung của tất cả các dân tộc, ủng hộ sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số thông qua việc hoạch định các chính sách đặc thù, duy trì hiệu quả sự thống nhất dân tộc và ổn định biên giới.
Đảng cũng tham gia tích cực vào phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới. Là đảng cầm quyền của một nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam trong khi kiên trì con đường phát triển của mình đã tích cực tham gia vào phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, đóng góp vào sự phát triển đổi mới của phong trào cộng sản quốc tế.
Ngoài ra, Đảng luôn chú trọng đổi mới lý luận và thực tiễn. Trong quá trình cải cách mở cửa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xuất các lý luận như “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, phá vỡ những ràng buộc giáo điều của mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống và chứng minh tính thích ứng cũng như sức sống của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm “thúc đẩy cải cách trên cơ sở kiên trì sự lãnh đạo của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa” đã trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho các đảng Cộng sản khác ở các nước đang phát triển.
Cuối cùng, Đảng luôn thúc đẩy và thực hành đoàn kết quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì chủ nghĩa quốc tế vô sản, duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc và các đảng cộng sản khác trên thế giới, thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng tích cực tham gia quản trị toàn cầu.
Trên các diễn đàn đa phương như BRICS và ASEAN, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản luôn chủ trương một trật tự quốc tế công bằng và chính nghĩa, lên tiếng thay mặt các nước đang phát triển, trở thành cầu nối quan trọng giữa phong trào xã hội chủ nghĩa và hợp tác ở Nam Bán cầu.
Kết thúc cuộc trao đổi, Giáo sư, Tiến sỹ Phan Kim Nga khẳng định, từ ngọn lửa giải phóng dân tộc đến hành trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.
Trong thời đại mới, Đảng Cộng sản Việt Nam, với bản lĩnh tự đổi mới và niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa xã hội, tiếp tục lãnh đạo Việt Nam vững bước trên con đường phát triển đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là sự lựa chọn của lịch sử mà còn là sự đồng thuận được hình thành bởi thực tiễn lâu dài của nhân dân Việt Nam, đồng thời là sự bảo đảm căn bản cho Việt Nam trong hành trình hiện đại hóa đất nước./.