Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa: Lo ngại quá sức ngân sách
Nhiều đại biểu và các thành viên của Ủy ban Văn hóa-Giáo dục cho rằng tỷ lệ vốn đối ứng từ ngân sách địa phương chiếm 24,6% là khó khả thi với các địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn.
Sáng nay (ngày 3/6), Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đã trình bày báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035. Theo đó, tổng các nguồn lực huy động để thực hiện chương trình là 122.250 tỷ đồng; trong đó ngân sách Trung ương 77.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương khoảng 30.250 tỷ đồng (chiếm 24,6%), huy động xã hội hóa 15.000 tỷ đồng.
Một số đại biểu Quốc hội bày tỏ lo lắng địa phương sẽ quá sức khi phải chi từ ngân sách tỉnh hơn 30.000 tỷ đồng để thực hiện chương trình theo đề xuất này.
Tỷ lệ vốn đối ứng khó khả thi
Lãnh đạo Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch cho rằng tổng nguồn vốn này là “phù hợp, đảm bảo khả năng đáp ứng nguồn lực của ngân sách nhà nước.” Tuy nhiên, đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa-Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết nhiều ý kiến trong ủy ban đánh giá tỷ lệ vốn đối ứng từ ngân sách địa phương chiếm 24,6% là khó khả thi, nhất là với các địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn.
Do vậy, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa-Giáo dục đề nghị: “Cần đánh giá sát hơn khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí ngân vốn sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn.”
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa-Giáo dục, một số thành viên ủy ban cũng băn khoăn khi tổng số vốn dự kiến dành cho chương trình khá lớn, cao hơn so với các chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện. Do đó, ủy ban đề nghị Chính phủ làm rõ căn cứ để xác định tổng mức vốn của chương trình.
Đại diện Ủy ban Văn hóa-Giáo dục cho rằng chưa có cơ sở để thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn cho chương trình, bởi theo quy định của Luật đầu tư công, do chưa đến thời điểm để dự toán nguồn lực cho Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.
Trước báo cáo của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về nguồn vốn đầu tư của chương trình, đa số thành viên Ủy ban đề nghị chương trình cần được thực hiện theo đúng quy định của Luật Đầu tư công, xây dựng thành các dự án thành phần; trong đó quy định cụ thể mục tiêu, đối tượng, nội dung, cơ quan thực hiện, vốn và nguồn vốn, cơ quan chịu trách nhiệm, sản phẩm đầu ra của dự án. Đối với một số nhiệm vụ, giải pháp khó có thể thiết kế thành dự án thành phần, đề nghị Chính phủ nghiên cứu, đề xuất báo cáo Quốc hội cho phép thiết kế theo nhóm nội dung thành phần.
Về thời gian thực hiện chương trình, đa số thành viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục tán thành với Tờ trình của Chính phủ và cho rằng thời gian thực hiện chương trình là 11 năm, phân chia thành 3 giai đoạn là hợp lý, có thời gian để các cơ quan chuẩn bị thực hiện Chương trình.
Hệ thống chỉ tiêu thiếu cơ sở khoa học
Theo báo cáo của Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 có 7 mục tiêu tổng quát gồm: Xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức, bản sắc, bản lĩnh, hệ giá trị con người, gia đình Việt Nam; nâng cao đời sống tinh thần, thụ hưởng văn hóa của nhân dân; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho phát triển văn hóa; hướng đến xây dựng đội ngũ văn nghệ sỹ, chuyên gia đầu ngành về văn hóa; phát huy tính đại chúng, khoa học của văn hóa; nâng cao vị thế của đất nước và hội nhập quốc tế về văn hóa.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đặt ra 9 mục tiêu đến năm 2030: Hoàn thành 100% việc xây dựng và ban hành các bộ quy tắc ứng xử, phù hợp với đặc điểm địa phương và nguyên tắc bình đẳng giới về môi trường văn hóa; 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh có đủ 3 loại hình thiết chế văn hóa, 80% các đơn vị hành chính cấp huyện có Trung tâm Văn hóa-Thể thao đạt chuẩn; 100% học sinh, học viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân được tiếp cận, tham gia hiệu quả, thường xuyên các hoạt động giáo dục nghệ thuật, giáo dục di sản văn hóa; ít nhất 95% di tích quốc gia đặc biệt và khoảng 70% di tích quốc gia được tu bổ, tôn tạo; hàng năm có từ 10-15 công trình nghiên cứu lý luận phê bình văn hóa, nghệ thuật chất lượng được công bố; phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào 7% GDP của cả nước; phấn đấu tin học hóa 100% các đơn vị thực hiện hoạt động văn hóa; 80% công chức, viên chức lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, văn nghệ sỹ thuộc các đơn vị nghệ thuật công lập được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn; hàng năm, có ít nhất 5 sự kiện quốc tế lớn về văn hóa nghệ thuật tại nước ngoài có sự tham gia chính thức của Việt Nam.
Bộ cũng đề ra 9 nhóm mục tiêu đến năm 2035. Theo đó, 90% địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, bình đẳng giới vào hương ước, quy ước của dòng họ, cộng đồng, làng xã. 100% di tích quốc gia đặc biệt và khoảng 80% di tích quốc gia được tu bổ, tôn tạo; ngành công nghiệp văn hóa phấn đấu đóng góp 8% vào GDP của cả nước; có mức tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 7%; thư viện số quốc gia được hoàn thiện, tích hợp thư viện thông minh, kết nối dữ liệu với các thư viện tại Việt Nam và quốc tế.
Ủy ban Văn hóa-Giáo dục đánh giá hệ thống chỉ tiêu của chương trình chưa được thuyết minh cụ thể về cơ sở khoa học; nhiều chỉ tiêu hỗn hợp, ghép nhiều nội dung khác nhau, dẫn đến khó thống kê, khó thực hiện, khó đánh giá kết quả. Đặc biệt, một số chỉ tiêu còn cao so với thực tế, chưa phù hợp với yếu tố đặc thù của từng vùng, từng địa phương.
Ngoài ra, theo báo cáo thẩm tra, nhiều nội dung của chương trình chưa được hợp lý, chưa phân cấp rõ ràng về trách nhiệm quản lý, thanh tra, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện. Do đó, Ủy ban đề nghị ban soạn thảo tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ lưỡng, nghiên cứu điều chỉnh và sắp xếp các nội dung cụ thể, bảo đảm tính khả thi./.