Bảo tồn và phát huy giá trị của Di sản Văn hóa Phi vật thể Đa Quốc gia Kéo co
Việc bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Văn hóa Nghi lễ và Trò chơi Kéo co thông qua các hoạt động thực hành di sản sẽ giúp Kéo co có sức sống bền vững trong xã hội đương đại.
Nghi lễ và Trò chơi Kéo co của cộng đồng các nước gồm Hàn Quốc, Campuchia, Philippines và Việt Nam đã được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản Văn hóa Phi Vật thể Đại diện của Nhân loại năm 2015.
Tại Việt Nam, có 4 địa phương là Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hà Nội có Di sản Kéo co được UNESCO ghi danh.
Việc bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Văn hóa Nghi lễ và Trò chơi Kéo co không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng mà cần cả sự chung tay, trách nhiệm của cả chính quyền địa phương, cũng như ngành văn hóa, để di sản có sức sống bền vững trong xã hội đương đại.
Hình thức sinh hoạt cộng đồng gắn với văn minh lúa nước
Kéo co là một hình thức sinh hoạt cộng đồng đã có từ lâu đời và phổ biến ở các nước nông nghiệp trồng lúa nước ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Nghi lễ và Trò chơi Kéo co gắn với nền nông nghiệp cổ xưa của dân tộc ta, bắt nguồn từ nghi lễ cầu mùa của cư dân trồng lúa. Sinh sống dựa vào nghề nông, từ xa xưa nhân dân ta đã tôn thờ những lực lượng tự nhiên, như thần sông nước, thần mặt trời, mặt trăng, mây, mưa, sấm, chớp... và tiến hành các lễ nghi nông nghiệp cổ truyền, để ước nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng no ấm.
Bởi vậy, Kéo co hiện diện lâu đời ở nhiều cộng đồng như một trò diễn - nghi thức quan trọng trong các lễ hội làng, tổ chức vào dịp đầu Xuân, nhằm chính thức khép lại một chu trình nông nghiệp và khởi đầu cho một mùa vụ mới. Kéo co được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi, từ miền Bắc đến miền Nam, từ đồng bằng đến miền núi.
Tuy nhiên, nghi lễ và trò chơi Kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ - cái nôi của nền văn minh lúa nước, văn minh sông Hồng.
Kéo co cũng được một số tộc người miền núi phía Bắc Việt Nam thực hành thường xuyên, như người Tày, Thái, Giáy - vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Người Việt gọi Kéo co bằng nhiều tên như “kéo song,” “kéo mây,” “kéo co ngồi,” “kéo mỏ,” người Tày gọi là “Nhanh vai,” “pẻng luông,” người Giáy là “So vai,” người Thái là “Nạ bai”...
Không chỉ phong phú về tên gọi, vật liệu, cách thức chơi cũng như ý nghĩa biểu tượng của Kéo co rất đa dạng. Từ những loài thực vật sinh trưởng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa, người dân đã chọn lựa ra các loài cây thích hợp như cây tre, cây song, cây mây... làm vật liệu kéo và dây Kéo co, cũng như sáng tạo nên những cách thức Kéo co sinh động.
Có hai cách Kéo co chính là Kéo co ở tư thế ngồi (người chơi ngồi trong hố đào vào mặt đất, chân tỳ vào điểm tựa phía trước để kéo một sợi dây ở hai hướng ngược nhau) và Kéo co ở tư thế đứng.
Đồng bào người Tày, người Thái ở khu vực miền núi thường dùng dây mây hoặc sợi dây rừng để kéo, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, cộng đồng thường dùng sợi dây song, dây thừng hoặc dùng cây tre làm vật kéo… Quy tắc chọn lựa người tham gia Kéo co cũng có nhiều biến thể khác nhau, phản ánh những yếu tố tộc người.
Có thể thấy, dù văn hóa, phong tục tập quán của các vùng, miền, các quốc gia khác nhau, xong nghi lễ và trò chơi kéo co đều có sự tương đồng ở triết lý nhân sinh, đều là biểu tượng của sự gắn kết cộng đồng, kết nối giữa con người với thiên nhiên…
Theo Phó giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Văn Trụ, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, Nghi lễ và Trò chơi Kéo co là di sản văn hóa vô cùng quý giá, tồn tại ở khắp cả nước, không chỉ trong cộng đồng người Kinh, còn trong các dân tộc như Tày, Dáy, mỗi nơi có một sắc thái riêng, tạo nên sự đa dạng văn hóa. Kéo co không chỉ là trò chơi hay hoạt động thể thao, còn là một nghi lễ thiêng liêng gắn kết với đời sống tinh thần, tâm linh, ước vọng tốt đẹp của cộng đồng, với những sắc thái riêng của mỗi quốc gia và mỗi vùng miền.
Tăng cường kết nối thực hành di sản
Sau 8 năm được UNESCO vinh danh, lần đầu tiên, một Liên hoan Trình diễn Nghi lễ và Trò chơi Kéo co Việt Nam-Hàn Quốc đã diễn ra tại Di tích Quốc gia Đền Trấn Vũ (phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội) vào ngày 17-18/11/2023, với sự tham gia của gần 500 nghệ nhân, người thực hành nghi lễ và trò chơi Kéo co đến từ các tỉnh Bắc Ninh, Lào Cai, Vĩnh Phúc, thành phố Hà Nội và thành phố Dangjin (Hàn Quốc).
Liên hoan nhằm tăng cường kết nối và trao đổi giữa các cộng đồng thực hành Di sản Nghi lễ và Trò chơi Kéo co tại Việt Nam và các quốc gia có di sản được UNESCO ghi danh.
Tại liên hoan này, người dân Thủ đô, du khách thập phương đã được chứng kiến màn thực hành Nghi lễ và Trò chơi Kéo co với sự tham gia của Hội Kéo co Gijisi (thành phố Dangjin, Hàn Quốc) và 7 cộng đồng Kéo co tại Việt Nam, gồm: Kéo co ngồi ở đền Trấn Vũ (quận Long Biên, Hà Nội); Kéo mỏ ở thôn Xuân Lai (huyện Sóc Sơn, Hà Nội); Kéo mỏ ở thôn Ngải Khê (huyện Phú Xuyên, Hà Nội); Kéo co tre ở thôn Hữu Chấp (Bắc Ninh); Kéo song ở thị trấn Hương Canh (Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc); Kéo co ở thôn Hòa Loan (huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc); Kéo co của cộng đồng người Tày (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai).
Trong tiếng hò reo, cổ vũ của đông đảo du khách trong và ngoài nước, nghi lễ và trò chơi Kéo co của các cộng đồng Kéo co Việt Nam -Hàn Quốc đã được trình diễn một cách đặc sắc, ấn tượng.
Công chúng đặc biệt ấn tượng với nghi lễ và trò Kéo co ngồi ở đền Trấn Vũ (quận Long Biên). Hình ảnh các chàng trai khỏe mạnh, mình trần, đầu chít khăn điều và ngồi Kéo co trong không khí náo nhiệt, cổ vũ nhiệt tình của mọi người đã thu hút đông đảo người xem.
Người xem cũng ấn tượng với màn trình diễn nghi thức Kéo co của cộng đồng người Tày (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai). Trước khi nghi thức Kéo co diễn ra, bà con chuẩn bị xôi, gà, trái cây, bánh kẹo làm lễ cúng thần linh. Khi Kéo co, thầy mo đứng ra làm lễ, đồng thời là người hướng dẫn kéo và ra hiệu lệnh kéo cho mọi người. Một trong những điểm đặc biệt ở nghi thức Kéo co của cộng đồng người Tày là đội Kéo co có một bên nam và một bên nữ.
Công chúng cũng rất thích thú với màn trình diễn của các nghệ nhân thuộc Hội Kéo co Gijisi (thành phố Dangjin, Hàn Quốc), bởi dây Kéo co ở Hàn Quốc chủ yếu được làm từ rơm/rạ và được gia cố bằng các loại nguyên liệu khác, như tre, vỏ cây, sợi nylon... Đặc biệt, Kéo co Hàn Quốc sử dụng nhiều loại hình dây kéo gồm dây đơn, dây đôi và dây hình kéo hình con cua, bạch tuộc (nhiều chân)...
“Khi được UNESCO vinh danh thì di sản này không chỉ là của riêng một cộng đồng hay riêng Việt Nam mà còn là một phần của di sản thế giới, do đó chúng ta cần gìn giữ, phát huy, liên kết các cộng đồng trong nước, từ đó kết nối với các nước khác cũng sở hữu di sản này,” Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Văn Trụ, Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam khẳng định./.