Tăng thuế với rượu, bia cần đánh giá tác động đến các ngành liên quan
Dự thảo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt cần có những đánh giá tác động toàn diện hơn để đưa ra chính sách hợp lý và củng cố tâm lý, niềm tin của các nhà đầu tư vào môi trường kinh doanh của Việt Nam.
“Việc tăng thuế Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm rượu, bia có thể tác động gián tiếp tới 24 ngành hàng trong nền kinh tế. Hiện nay, Cơ quan soạn thảo vẫn chưa đưa ra được đánh giá tác động của việc tăng thuế tới các ngành kinh tế khác, bao gồm cả dịch vụ lưu trú, ăn uống… “
Tại tọa đàm “Chính sách thuế hướng tới khoan sức doanh nghiệp,” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức, ngày 30/8, tiến sỹ Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nhấn mạnh nội dung trên đồng thời đề xuất Cơ quan soạn thảo cần có đánh giá toàn diện việc tăng thuế tác động tới các ngành khác trong nền kinh tế.
Tác động “liên hoàn”
Trong năm nay, dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp tháng 10 và thông qua tại Kỳ họp tháng 5/2025. Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo Luật đó là tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm rượu, bia liên tục từ năm 2026 và đến năm 2030 sẽ chịu thuế suất lên tới 100%.
Cụ thể, dự thảo đề xuất hai phương án đánh thuế với mặt hàng rượu bia và Cơ quan soạn thảo là Bộ Tài chính đang nghiêng về phương án 2, trong đó rượu từ 20 độ trở lên sẽ áp thuế 80% vào năm 2026, tăng dần lên 100% vào 2030 và rượu dưới 20 độ chịu thuế 50%, sau đó tăng lên cao nhất 70%, thuế suất đối với bia cũng tăng dần từ 80% lên 100%.
Tiến sỹ Nguyễn Minh Thảo nhấn mạnh mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt là điều tiết hành vi tiêu dùng, trên cơ sở đó mới điều tiết sản xuất và hành vi tiêu dùng hướng tới bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, mục tiêu cuối cùng mới là thu ngân sách Nhà nước.
Xét theo mục tiêu đó, bà Thảo ủng hộ việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia là cần thiết đồng thời điều tiết hành vi tiêu dùng đối với sản phẩm không có lợi cho sức khỏe nếu lạm dụng. Tuy vậy, bà Thảo vẫn phải nhấn mạnh: “bất kỳ chính sách nào khi được ban hành cần được đánh giá toàn diện trên nhiều khía cạnh,” và bày tỏ việc đánh giá tác động với dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) lần này còn khá sơ sài, chưa nêu rõ được tác động thực sự của quy định đưa ra.
Theo bà Thảo, các nhà đầu tư khi lựa chọn đầu tư vào lĩnh vực nào đó tại Việt Nam, thường có tầm nhìn dài hạn và lên tới vài chục năm. Và, khi chính sách đối với một ngành hàng thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp trong ngành hàng đó đồng thời lan tỏa ra các ngành liên quan. Vì vậy, các nhà đầu tư trong nhiều ngành hàng khác cũng sẽ nhìn vào chính sách đó để đánh giá rủi ro. Bà Thảo nhấn mạnh, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư của nền kinh tế. Sự cần thiết phải đánh giá tác động toàn diện để đưa ra chính sách hợp lý cũng như việc củng cố tâm lý, niềm tin của các nhà đầu tư vào môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Từ góc nhìn khách quan, chuyên gia kinh tế Phan Đức Hiếu cho rằng việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia là cần thiết để thể chế hóa chủ trương, yêu cầu của Đảng, Nhà nước và theo xu hướng chung. Việc đánh thuế theo phương pháp thuế tương đối cũng phù hợp với bối cảnh của Việt Nam trong thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, ông Hiếu cũng thống nhất với quan điểm đề nghị Cơ quan soạn thảo cần có đánh giá tác động toàn diện, bởi tăng thuế sẽ làm tăng giá sản phẩm, giảm hành vi tiêu dùng, dẫn đến giảm sản xuất, thậm chí ngừng sản xuất và kéo theo vấn đề việc làm, các ngành hàng liên quan cũng bị ảnh hưởng.
Đồng thuận ủng hộ mục tiêu sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là để bảo đảm sức khỏe của người tiêu dùng, giúp gia tăng nguồn lực cho phát triển kinh tế và bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Bia, rượu và nước giải khát Việt Nam (VBA) có thêm một số lưu ý Cơ quan soạn thảo về khả năng làm gia tăng khó khăn cho các doanh nghiệp trong ngành đồ uống sau quá trình “vật lộn” từ giai đoạn dịch bệnh COVID-19.
Báo cáo từ Hiệp hội Bia, rượu và nước giải khát Việt Nam, cho biết các nhà máy sản xuất bia, rượu đang đóng góp cho ngân sách Nhà nước trên 60.000 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó, ngành này có tới hàng triệu lao động đang làm trực tiếp trong các nhà máy và các chuỗi ngành hàng liên quan (logistics, dịch vụ…).
Về thực trạng của ngành trong hiện tại, bà Vân Anh chia sẻ nhiền doanh nghiệp và tập đoàn lớn đã cắt giảm lực lượng lao động, thu hẹp quy mô, thay đổi cấu trúc để thích ứng với điều kiện mới. Trong bối cảnh này, thuế tiêu thụ đặc biệt tăng lên tới 100% đến năm 2030 là một mức thuế suất rất cao. Đề xuất tại dự thảo đã khiến các doanh nghiệp trong ngành cũng như các ngành liên quan là rất bất ngờ và không kịp “trở tay” đánh giá hết tác động từ việc tăng thuế này.
“Trong bối cảnh đó, Cơ quan soạn thảo cùng với hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia, tổ chức có nghiên cứu để có những đánh giá tác động định lượng khi điều chỉnh tăng thuế này, không chỉ với đối tượng trực tiếp mà cả các đối tượng gián tiếp,” bà Vân Anh nói.
Giãn lộ trình áp dụng
Ông Phan Đức Hiếu cho rằng cần thống nhất quan điểm rằng đánh thuế để hạn chế tiêu dùng dẫn đến hạn chế sản xuất, chứ không phải là dừng và đóng cửa. Bởi, sản xuất có thể bị thu hẹp, song phạm vi vẫn đảm bảo có thể tăng trưởng chứ không phải là dừng hoàn toàn và bị đào thải. Điều này nhằm đảm bảo công bằng, hài hòa.
“Vấn đề khó nhất là đánh thuế như nào? Cao nhất là bao nhiêu và lộ trình từ năm nào,” ông Hiếu nhấn mạnh điều này và cho rằng sản phẩm bia và rượu khác nhau vì vậy kịch bản đánh thuế cần khác nhau. Mẫu số chung là phải đặt mục tiêu doanh nghiệp vẫn duy trì sản xuất, kinh doanh hiệu quả, hợp lý.
Trên cơ sở đó, ông Hiếu đề nghị Cơ quan soạn thảo nên cân nhắc lộ trình đánh thuế theo hướng kéo giãn hơn so với đề xuất như dự thảo Luật. Đó là nên bắt đầu từ sau năm 2026, để doanh nghiệp có thời gian thay đổi, cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, thích ứng với chính sách thuế mới. Về mức thuế, Ban soạn thảo cần tính toán hết sức cẩn thận. Với thị trường bia, chỉ nên cân nhắc lộ trình tăng thuế (từ năm 2027) và mức tăng không quá đột ngột dẫn đến người ta ngừng uống. Bởi, doanh nghiệp ngừng bán bia sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất, công ăn việc làm. Và, bia 0 độ cần cân nhắc không nên đánh thuế tiêu thụ đặc biệt.
Với thị trường rượu, ông Hiếu kiến nghị cũng cần cân nhắc giãn lộ trình bắt đầu tăng thuế từ 2027, thay vì từ 2026. Về mức độ đánh thuế, ông Hiếu đề nghị cần cân nhắc hai vấn đề.
Một là thị trường rượu thủ công hiện rất lớn, chưa kể nhóm rượu phi chính thức. Nếu mức thuế tăng quá cao khiến chi phí tăng quá lớn, người uống rượu sẽ tìm sang sản phẩm rượu thủ công, trong khi quản lý sản phẩm này còn hạn chế, khó bảo đảm yêu cầu chất lượng. Như vậy, tính hiệu quả của chính sách thuế là giảm uống rượu sẽ không đạt được, thậm chí còn khiến rượu chính thức gặp bất lợi hơn so với rượu thủ công, rượu phi chính thức.
Hai là Cơ quan soạn thảo cần làm rõ vì sao phân chia rượu trên 20 độ và dưới 20 độ để áp thuế khác nhau. Bởi, rượu mạnh có thể được uống ít hơn, song lại dẫn đến sử dụng rượu thấp độ gia tăng. Khi một chính sách đưa ra không nên tạo thuận lợi cho nhóm đối tượng này hơn nhóm đối tượng khác. Do đó, việc phân định độ cồn trong rượu cần tính toán kỹ để bảo đảm sự công bằng.
Ủng hộ đề xuất áp dụng lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn từ năm 2027, bà Nguyễn Minh Thảo bổ sung việc tăng thuế này không nên tăng hàng năm sẽ khó cho doanh nghiệp trong việc dự tính cũng như thích ứng hiệu quả. Bà kiến nghị có thể xem xét tăng thuế từ năm 2027, sau đó đến năm 2029 tăng tiếp.
Ở góc độ doanh nghiệp, bà Chu Thị Vân Anh đề xuất,việc tiếp cận chính sách tiên tiến của thế giới để tham khảo là cần thiết, song cần đánh giá bối cảnh thực tiễn của Việt Nam để đề ra lộ trình và mức thuế cho phù hợp.
“Chúng tôi mong lộ trình áp dụng từ năm 2027 và tăng ở mức tối đa là 80% đến năm 2030, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi sau giai đoạn khó khăn,” bà Vân Anh chia sẻ.
Để có cơ sở khoa học cho việc tăng thuế lần này, các đại biểu cũng kiến nghị ngành hàng cùng các bên liên quan cần đánh giá xem sức chống chịu của doanh nghiệp ở mức độ nào sẽ bị thu hẹp sản xuất nhưng vẫn tạo việc làm và tăng trưởng cho nền kinh tế. Cụ thể, mức độ nào doanh nghiệp sẽ quá sức chịu đựng, có thể ngừng hoạt động và phá sản, từ đó làm cơ sở tính toán mức tăng cũng như lộ trình tăng cho phù hợp. Các đại biểu cũng đề nghị, Nhà nước cần có thêm các biện pháp bổ sung, trong đó tăng cường tuyên truyền là giải pháp đặc biệt quan trọng, để người tiêu dùng hiểu rõ tác hại của rượu, bia nếu lạm dụng, qua đó sẽ tự điều tiết hành vi tiêu dùng nhằm bảo vệ sức khỏe của chính mình./.