Chuyên đề: Công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên
TS. Đỗ Phương Thảo, Giám đốc Trung tâm TTCTTG, Ban Tuyên giáo Trung ương
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. MỤC ĐÍCH
Trao đổi với đội ngũ cán bộ tuyên giáo, báo cáo viên các cấp về một số vấn đề đặt ra với công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên trong bối cảnh tình hình hiện nay
Trao đổi, thống nhất hướng triển khai thực hiện một số nội dung quy định tại Quy chế 973 về đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, nhất là với tuyên truyền viên cơ sở.
2. YÊU CẦU
Phần trình bày ngắn gọn, rõ ràng, đi vào những nội dung tập huấn cụ thể, có ý nghĩa thiết thực với đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác tuyên truyền miệng.
II. NỘI DUNG
A. Đặt vấn đề
Tuyên truyền miệng, với bản chất là tuyên truyền bằng ngôn ngữ nói, thông qua giao tiếp trực tiếp mà trao đổi, thuyết phục, cổ vũ, động viên người nghe, thúc đẩy hành động của người nghe... trong bối cảnh Covid và thời đại công nghệ số, đã thay đổi rất nhiều. Chúng ta có nhiều lợi thế và cũng đang phải đối mặt với nhiều trở ngại.
Vậy những vấn đề nào đang đặt ra với đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền miệng trong bối cảnh hiện nay? Hoạt động BCV, TTV trong thời gian qua có gì đáng chú ý? Việc thực hiện Quy chế hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên (Quy chế 973) có vấn đề khó khăn, vướng mắc gì không? Chúng ta nên tháo gỡ ra sao?
B. Giải quyết vấn đề: 3 nội dung chính
Thứ nhất: Công tác tuyên truyền miệng trong bối cảnh tình hình hiện nay.
Thứ hai: Hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Thứ ba: Một số trao đổi về việc triển khai thực hiện Quy chế 973.
-----
PHẦN THỨ NHẤT
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
1. Đánh giá chung
Tuyên truyền miệng là một trong những hình thức quan trọng của công tác tuyên truyền của Đảng, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, tạo nên sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã đề ra.
- Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền miệng, thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, không ngừng củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH, vào sự nghiệp đổi mới đất nước...
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đã khẳng định công tác tuyên truyền miệng đã góp phần quan trọng tạo nên các phong trào cách mạng. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác tuyên truyền lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thực tiễn hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng, đối ngoại…; đưa nước ta bước lên vị thế mới trên trường quốc tế. Công tác tuyên truyền miệng đã góp phần tích cực trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội...
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại. Thành tựu của cách mạng Việt Nam thời gian qua đã khẳng định, đã trở thành minh chứng cho vai trò quan trọng, đặc biệt của công tác tuyên truyền, trong đó có công tác tuyên truyền miệng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền miệng thời gian qua còn không ít tồn tại, hạn chế: Một số cấp ủy, chính quyền nhận thức về vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền miệng còn ở mức độ; một số báo cáo viên, TTV chưa thực sự tâm huyết, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu; nội dung, phương thức tuyên truyền miệng chưa có nhiều đổi mới; cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ thù lao dành cho báo cáo viên còn nhiều hạn chế …
2. Những vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền miệng trong bối cảnh hiện nay
Với đặc thù của phương thức tuyên truyền, đặt trong bối cảnh tình hình mới, công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng phải có những điều chỉnh phù hợp để đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng hiện nay.
Thứ nhất: Tình hình thế giới, khu vực
Có 3 nhóm vấn đề cần chú ý:
Một là: - Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo.
- Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn
- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ diễn ra dưới nhiều hình thức làm gia tăng rủi ro đối với kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế.
- Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương đang đứng trước thách thức lớn.
(1) Sau 2 năm Covid 19 hoành hành dữ dội trên phạm vi toàn cầu, gây nên cái chết của gần 7 triệu người, khiến đời sống kinh tế của nhiều quốc gia rơi vào suy thoái, nhân loại nói chung và châu Âu nói riêng đâu có thể ngờ tới cuộc xung đột dữ dội giữa Nga và Ucraina có thể bắt đầu vào ngày 24/2/2022 và kéo dài cho tới hôm nay. Cuộc xung đột của hai quốc gia từng là người cùng một nhà trong Liên bang Xô Viết, có sợi dây gắn bó về lịch sử, văn hóa, tôn giáo, v.v... đã và đang kéo theo sự đối đầu của Nga với Phương Tây, Mỹ và nhiều quốc gia khác; gây nên hệ lụy trước mắt và lâu dài không chỉ với chính hai quốc gia đang xung đột trực tiếp mà còn với cả thế giới, cả châu Âu, các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc; tới ASEAN và Việt Nam.
Việt Nam có quan hệ hữu nghị truyền thống với cả Nga và Ucraina. Những biến động trên thực địa, vấn đề truyền thông, tác động về kinh tế, chính trị, đối ngoại liên quan đến xung đột của hai đối tác này đã, đang và tiếp tục gây trở ngại cho chúng ta. Tác động đến tâm tư, tình cảm của đông đảo cán bộ, đảng viên, Nhân dân. Trở thành một vấn đề mà công tác tuyên truyền nói chung, công tác tuyên truyền miệng nói riêng phải quan tâm, triển khai thực hiện thật tốt.
(2) Khu vực Biển Đông đã, đang và tiếp tục tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động đến môi trường an ninh khu vực. Vai trò của Mỹ và các nước đồng minh trong chiến lược Châu Á Thái Bình Dương. Vị thế của Trung Quốc cùng với khát vọng hiện thực hóa Giấc mộng Trung Hoa. Tiền lệ các nước lớn dựa trên sức mạnh quân sự gia tăng các hành động áp đặt với các nước nhỏ, bất chấp luật pháp quốc tế... đang tạo ra các tiền lệ nguy hiểm... Tất cả đang là thách thức cho Việt Nam chúng ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ và giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Công tác tuyên truyền, trong đó có tuyên truyền miệng về vấn đề Biển Đông, biên giới lãnh thổ trên đất liền, các quyền, lợi ích quốc gia trên biển, tuyên truyền về các mối quan hệ đối ngoại... tiếp tục là nhiệm vụ hết sức nặng nề của đội ngũ chúng ta.
(3) ASEAN ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khăn (Khó khăn do kinh tế suy giảm trong giai đoạn hậu Covid; sự khác biệt trong quan điểm về vấn đề Biển Đông, về xung đột Nga - Ucraina...).
Hai là: Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc
Lấy ví dụ riêng trong hoạt động thông tin, truyền thông. Vai trò của báo chí viết so với báo chí điện tử như thế nào? Các nền tảng mạng xã hội như facebook, twetter, tiktok, youtube, zalo, viber... đã và đang tác động lớn đến cộng đồng ra sao?
Đặt trong bối cảnh này, bên cạnh vai trò của truyền thông trên báo chí điện tử, trên mạng xã hội, công tác tuyên truyền miệng rõ ràng đang đứng trước thách thức rất lớn. Chúng ta sẽ phải làm gì đây để hoạt động tuyên truyền trực tiếp, bằng ngôn ngữ nói.. vẫn có thể phát huy được vị thế của mình? Vẫn đóng góp quan trọng vào việc nâng cao nhận thức; củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội?
Ba là: Những vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, bảo vệ an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội, an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp.
Vấn đề bảo vệ hòa bình đang gặp rất nhiều trở ngại, ta có thể thấy từ xung đột Nga - Ucraina hiện nay. Từ những thông tin về xung đột này hay những mất mát vì Covid 19, vấn đề bảo vệ an ninh con người đang thực sự là vấn đề lớn của các quốc gia. ..
Rõ ràng là, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực như vậy đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải triển khai, thực hiện trong công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên hiện nay. Chúng ta bắt buộc phải có điều chỉnh so với cách thức chúng ta vẫn làm trước giai đoạn Covid 19, trước khi có xung đột, trước khi an ninh mạng... đang trở thành vấn đề rất lớn với cả nhân loại.
“Một cái đập cánh của con bướm ở Brazil có thể dẫn tới cơn lốc ở Texas” không còn là hiệu ứng chỉ để nói về thời tiết mà có thể sử dụng làm cách nói ví von để chứng minh rằng một vấn đề dù rất nhỏ ở một quốc gia xa xôi, trong bối cảnh thời đại công nghệ hiện nay, hoàn toàn có thể là dấu hiệu để gây nên một trận cuồng phong về chính trị, kinh tế, xã hội ở một quốc gia khác. Xác định chính xác, nhanh chóng các vấn đề của thế giới, khu vực và tác động nhiều chiều của nó tới nhận thức, tình cảm của cán bộ, đảng viên, Nhân dân, vì thế, là điều quan trọng đối với người làm công tác tuyên truyền miệng hiện nay.
Thứ hai: Tình hình trong nước
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá một cách đầy đủ, sâu sắc những thành tựu của Việt Nam chúng ta trong 35 năm đổi mới và trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức. Đó là 5 nhóm vấn đề sau:
(1) Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra.
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng. Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao. Kinh tế tập thể có quy mô nhỏ. Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chưa bền vững.
Những năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
(2) Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, gây bức xúc xã hội.
Xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước.
(3) Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt, với những luận điệu xuyên tạc tinh vi, xảo quyệt. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức.
(4) Giá trị lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam chưa được phát huy đầy đủ.
(5) Năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính sách trong một số lĩnh vực còn thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Những biểu hiện tiêu cực; vi phạm pháp luật; tự diến biến, tự chuyển hóa ngày càng phức tạp... Việc thể chế hoá, cụ thể hoá một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu.
Những vấn đề nêu trên tác động trực tiếp tới tư tưởng, tình cảm, tâm trạng và dư luận xã hội đòi hỏi công tác tuyên truyền nói chung, công tác tuyên truyền miệng nói riêng thông qua đội ngũ báo cáo viên, TTV phải tạo được sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII và nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra.
Thứ ba: Yêu cầu của Đảng
- Xuất phát từ nhận thức của Đảng ta trong hơn 90 năm qua, luôn coi trọng và xác định công tác tư tưởng, tuyên truyền, tuyên truyền miệng là một mặt trận quan trọng, hàng đầu; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được coi trọng, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân...;
- Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của các tổ chức đảng;
- Yêu cầu về hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng;
- Đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cho giai đoạn cách mạng hiện nay.
Thứ tư: Yêu cầu đối với công tác tuyên truyền trong thời đại công nghệ thông tin
- Tính đến ngày 30/11/2021, cả nước có 816 cơ quan báo chí, trong đó có 557 báo và tạp chí in, 29 báo và tạp chí điện tử; 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh truyền hình trong đó có 2 đài quốc gia, 64 đài địa phương.
- Tính đến tháng 6/2021 số lượng người dùng internet ở VN là gần 70 triệu người, chiếm 70% dân số. Số người dùng mạng xã hội là gần 76 triệu người. Việt Nam là quốc gia có lượng người sử dụng internet cao thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 6 ở khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình 7 giờ hàng ngày tham gia các hoạt động trên internet và tỷ lệ người dùng internet hàng ngày lên tới 94%.
Thống kê khác cho thấy người Việt Nam đang dành 70 phút/ngày để xem video trên Youtube. Phạm vi tiếp cận của Youtube với người Việt đạt trên 45 triệu người từ 18 tuổi trở lên. Việt Nam xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á (sau Philippin) với 36 triệu người xem video trên các nền tảng mạng xã hội và ứng dụng truyền hình internet.
Trong bối cảnh này, tuyên truyền miệng liệu có phát huy được vai trò của mình?
- Ưu thế của công tác tuyên truyền miệng so với các loại hình tuyên truyền khác là thông qua lời nói, thông qua giao tiếp trực tiếp, người báo cáo viên, tuyên truyền viên, với năng lực, trình độ và tâm huyết, tình cảm của mình có thể đi sâu vào phân tích bản chất vấn đề, sự kiện; khích lệ, động viên người nghe, giải quyết được những vấn đề tâm tư, tình cảm, tư tưởng của người nghe.
- Trong bối cảnh bùng nổ thông tin, đa chiều, nhiều chiều, thậm chí trái chiều với những luận điệu xấu độc, xuyên tạc của các thế lực thù địch, chỉ có tuyên truyền trực tiếp mới có thể làm rõ bản chất vấn đề, sự kiện, định hướng dư luận xã hội.
- Nhu cầu thông tin từ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân, nhất là ở cơ sở là rất lớn, cần được đội ngũ báo cáo viên đáp ứng và định hướng để tạo nên trận địa tư tưởng vững mạnh ngay từ tuyến cơ sở.
- Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn trong nước. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô chính là coi nhẹ công tác tư tưởng, xa rời quần chúng. Một số sự kiện phức tạp, điểm nóng trong nước thời gian qua có biểu hiện xem nhẹ công tác tư tưởng, nắm địa bàn cơ sở không chắc, không kịp thời định hướng dư luận (Ta có thể nhìn lại một số vụ việc liên quan đến sự kiện QH cho ý kiến đối với dự thảo Luật về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…).
Tóm lại, mặc dù công nghệ thông tin đã phát triển, các phương tiện truyền thông đã góp phần rất tích cực trong công tác tuyên truyền, nhưng vai trò của công tác tuyên truyền miệng thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng vẫn rất quan trọng, đặc biệt là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, những chủ trương lớn, những chính sách tác động đến Nhân dân. Những vấn đề khó có thể thông tin rộng rãi trên báo chí, truyền thông hay các hình thức khác.
Bối cảnh tình hình mới, những yêu cầu mới của đời sống chính trị , kinh tế, xã hội đất nước, yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đòi hỏi công tác TTM phải có những thay đổi phù hợp nhằm góp phần quan trọng tạo sự thống nhất nhận thức, hành động trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; thông qua đội ngũ báo cáo viên sẽ trở thành cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, củng cố niềm tin trong các tầng lớp nhân dân.
PHẦN THỨ HAI
HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN
1. Đánh giá chung
Tính đến tháng 6/2021, tổng số báo cáo viên các cấp và tuyên truyền viên cơ sở là 603.148 đồng chí. Trong đó, có 424 báo cáo viên trung ương (0,07%), 4.514 báo cáo viên cấp tỉnh (0,73%); 83.416 báo cáo viên cấp huyện (13,8%) và 514.794 tuyên truyền viên cơ sở (85,4%);
(Báo cáo viên Trung ương: Trình độ trên đại học: 316 đồng chí (74,5%); đại học, cao đẳng: 108 đồng chí (25,5%); trung cấp, trung học phổ thông: 0.
- Báo cáo viên cấp tỉnh: Trình độ trên đại học: 2.010 đồng chí (44,53%); đại học, cao đẳng: 2.502 đồng chí (55,43%); trung cấp, trung học phổ thông: 2 đồng chí (0,04%).
- Báo cáo viên cấp huyện/thành phố: Trình độ trên đại học: 11.981 đồng chí (14,36%); đại học, cao đẳng: 59.642 đồng chí (71,50%); trung cấp, trung học phổ thông: 11.793 đồng chí (14,14%).
- Tuyên truyền viên cơ sở: Trình độ trên đại học: 19.168 đồng chí (3,72%); đại học, cao đẳng: 299.507 đồng chí (58,18%); trung cấp, trung học phổ thông: 196.119 đồng chí (38,1%).
(Báo cáo viên Trung ương: Trình độ lý luận chính trị Cao cấp/Cử nhân: 424 (100%).
- Báo cáo viên cấp tỉnh: Trình độ lý luận chính trị Cao cấp/Cử nhân: 4.356 đồng chí (96,5%), Trung cấp/Sơ cấp: 158 đồng chí (3,5%).
- Báo cáo viên cấp huyện/thành phố: Trình độ lý luận chính trị Cao cấp/Cử nhân: 31.734 đồng chí (38,04%), Trung cấp/Sơ cấp: 51.682 đồng chí (61,96%).
- Tuyên truyền viên cơ sở: Trình độ lý luận chính trị Cao cấp/Cử nhân: 73.250 đồng chí (14,23%), Trung cấp/Sơ cấp: 441.544 đồng chí (85,77%).
2. Ưu điểm
Đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên:
Nhìn chung, đội ngũ báo cáo viên các cấp, TTV cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, có năng lực, kiến thức chuyên môn, hiểu biết nghiệp vụ và trách nhiệm cao với công việc.
Đã cơ bản thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền miệng theo sự phân công của các cấp ủy; thông tin đúng, đủ, chính xác và kịp thời các vấn đề cấp ủy cần định hướng thông tin và đang được xã hội quan tâm. Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn.
Tuyệt đại đa số báo cáo viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng; có tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức kỷ luật cao, nhất là kỷ luật phát ngôn; nhiệt tình, tâm huyết với nhiệm vụ được phân công; gương mẫu về đạo đức, lối sống; có mối quan hệ gần gũi, sâu sát, gắn bó với Nhân dân; có bề dày kinh nghiệm, đã trải qua nhiều chức vụ lãnh đạo, công tác ở nhiều lĩnh vực (cấp ủy, chính quyền, đoàn thể) và đóng vai trò hạt nhân trong việc quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại các cơ quan, tổ chức đảng.
Các đồng chí báo cáo viên, tuyên truyền viên luôn chủ động và quan tâm nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, kịp thời phản ánh và đề xuất kiến nghị với các cấp ủy các biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, đã có sự phối hợp giữa báo cáo viên do ban tuyên giáo quản lý với báo cáo viên của các ban, ngành, giữa báo cáo viên với tuyên truyền viên, qua đó góp phần phát huy được những thế mạnh của hình thức tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên.
Nhiều cấp ủy đảng đã tổ chức được đội ngũ báo cáo viên chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả (Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, Đảng ủy khối các cơ quan Trung ương, các thành ủy TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, các tỉnh ủy: Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Long, Tây Ninh, Bình Phước, Lâm Đồng, Quảng Bình..)
Đối với công tác quản lý hoạt động BCV, TTV:
- Ban Tuyên giáo các cấp thường xuyên cập nhật bổ sung và thực hiện tốt việc cấp thẻ, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho đội ngũ báo cáo viên thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền miệng. (3 bản tin, App, Trang tin, các Hội nghị báo cáo viên Trung ương)
- Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên và cập nhật kiến thức cho đội ngũ này (trong vòng 10 năm, Ban Tuyên giáo các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, trung ương các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức 77.135 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên cho đội ngũ báo cáo viên các cấp và tuyên truyền viên cơ sở. Tiêu biểu một số địa phương tổ chức được nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng như: Tuyên Quang tổ chức 1.380 buổi với 76.856 lượt nghe; Lào Cai tổ chức 4.701 buổi với 145.735 lượt nghe; Đồng Nai tổ chức 3.131 buổi với 670.734 lượt nghe; Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tổ chức 1.068 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp…). Nhiều địa phương, đơn vị tổ chức cho đội ngũ báo cáo viên đi nghiên cứu thực tế, tham quan, tạo điều kiện cho những người làm công tác tuyên truyền miệng được giao lưu, học hỏi, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm để phục vụ tốt hơn yêu cầu công tác trong tình hình hình mới.
Việc chi trả phụ cấp cho đội ngũ báo cáo viên các cấp được thực hiện theo đúng quy định (Hướng dẫn liên Ban số 06-HD/BTCTW-BTGTW ngày 15/8/2011 về thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với báo cáo viên các cấp. Theo đó, báo cáo viên Trung ương được hưởng phụ cấp trách nhiệm hằng tháng bằng 0,5 mức lương tối thiểu chung; báo cáo viên cấp tỉnh bằng 0,3 và báo cáo viên cấp huyện, xã được hưởng 0,2 mức lương tối thiểu chung). Ban Tuyên giáo Trung ương chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp, chi trả chế độ cho đội ngũ báo cáo viên cấp Trung ương. Một số cấp ủy địa phương có cách làm sáng tạo, vận dụng linh hoạt mức trợ cấp cho báo cáo viên và có chế độ hỗ trợ, động viên đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở trong quá trình triển khai, thực hiện nhiệm vụ (Tỉnh ủy Thanh Hoá hỗ trợ tiền đi lại cho đại biểu dự Hội nghị báo cáo viên 30.000 - 50.000 đồng/buổi. Huyện Như Thanh của tỉnh trích ngân sách chi trả chế độ phụ cấp 0,2% hệ số lương cơ bản cho 10 BCV của Huyện bổ sung tăng thêm ngoài quy định. Tỉnh ủy Sơn La (Huyện Mường La) chi trả thù lao mức 500.000 đ/buổi cho BCV cấp huyện và 1.000.000 đ/buổi cho BCV cấp tỉnh. Tỉnh Thái Bình, một số huyện tại Lai Châu, Quảng Nam… thực hiện hỗ trợ tiền đi lại cho TTV cơ sở)…
Nhiều cấp ủy đảng đã quan tâm, từng bước nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật theo hướng hiện đại nhằm bảo đảm cho hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được thông suốt và hiệu quả, trang bị phương tiện hỗ trợ tuyên truyền như máy tính xách tay, máy chiếu, máy ghi âm, máy ảnh kỹ thuật số, hệ thống âm thanh hiện đại… Qua đó, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin (sử dụng bài giảng điện tử, trình chiếu slie, hình ảnh minh họa…) góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền miệng và nâng cao trình độ, kỹ năng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Đồng thời, mở rộng đối tượng, số lượng người nghe, kịp thời tương tác và thu hút, thuyết phục được đông đảo người nghe…
Công tác sơ kết, tổng kết công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên được đa số ngành, địa phương thực hiện thường xuyên 6 tháng và 1 năm, lồng ghép trong tổng kết công tác tuyên giáo cuối năm, sơ kết 5 năm, tổng kết 10 năm, hoặc xây dựng báo cáo tổng kết (Tỉnh Cao Bằng, Bắc Ninh, Tiền Giang… đầu tư trang thiết bị cho tất cả các xã trong tỉnh: phòng họp, máy chiếu, màn hình rộng, âm thanh... phục vụ tổ chức hội nghị BCV trực tuyến)
Nhiều ban tuyên giáo đã tham mưu cho cấp ủy tổng kết thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Trung ương, của tỉnh ủy, thành ủy về công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên (Lào Cai: Tổ chức hội nghị tổng kết công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên các nhiệm kỳ 2010 - 2015, 2015 - 2020. Tham mưu sơ kết, tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới; tổng kết 10 năm thực hiện Quy chế cung cấp thông tin phục vụ công tác tuyên truyền miệng của Đảng; tổng kết 10 năm thực hiện Quy chế hoạt động BCV của Đảng; Đà Nẵng: Từ năm 2010 đến nay, các cấp ủy đảng đã tiến hành 2 lần hội nghị tổng kết công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên nhiệm kỳ 2010 - 2015 và nhiệm kỳ 2015 - 2020; Quân ủy Trung ương: Trong 10 năm, toàn quân đã tổ chức 03 cuộc sơ kết, rút kinh nghiệm công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên từ cấp cơ sở đến toàn quân vào các năm 2012, 2014, 2017). Từ đó đánh giá chất lượng hoạt động trong thời gian đã qua và rút kinh nghiệm, đề ra kế hoạch, giải pháp công tác trong thời gian tới, qua đó góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên.
3. Tồn tại, hạn chế
- Về xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên:
Việc xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên ở một số nơi chưa sát với hướng dẫn của Trung ương. Nhiều ngành, địa phương mặc dù kiện toàn đội ngũ báo cáo viên đủ số lượng, tiêu chuẩn theo quy định, tuy nhiên có nhiều trường hợp báo cáo viên không thường xuyên thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền miệng. Một số tỉnh uỷ, thành uỷ chưa kiện toàn đủ số lượng báo cáo viên theo quy định; Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đông nhưng chưa mạnh. Chưa xây dựng được đội ngũ báo cáo viên cho từng đối tượng theo tinh thần Thông báo Kết luận số 225-TB/TW, ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng;
Công tác quản lý, đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên còn bất cập; chưa xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên bảo đảm tính khoa học; công tác giám sát, kiểm tra hoạt động của đội ngũ báo cáo viên chưa thật sự được coi trọng, chưa thực chất, thiếu thường xuyên.
- Về tổ chức hoạt động báo cáo viên:
Một số địa phương, cơ quan đơn vị còn thụ động trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch cho công tác tuyên truyền miệng. Nhiều cấp uỷ chưa tổ chức định kỳ hội nghị báo cáo viên hàng tháng, nhất là ở cấp huyện (Kết quả khảo sát của Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương (năm 2017) cho thấy, một số tỉnh chưa duy trì tổ chức đủ 12 hội nghị báo cáo viên cấp tỉnh/năm; Hội nghị báo cáo viên cấp huyện còn nhiều bất cập: Có nơi giao Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện chủ trì; nhiều huyện 3 tháng tổ chức 01 kỳ, cá biệt có huyện 6 tháng, 9 tháng tổ chức 01 kỳ; nhiều hội nghị báo cáo viên cấp huyện không có nội dung định hướng công tác tuyên truyền; chất lượng thông tin thời sự hạn chế).
Một số nội dung chuyên đề của Hội nghị Báo cáo viên chưa thật sự đảm bảo tính thời sự, hấp dẫn. Một số báo cáo viên quá thận trọng trong việc bảo mật thông tin (nhất là tại hội nghị Báo cáo viên trực tuyến), có tâm lý “an toàn” trong cung cấp thông tin nên nội dung còn đơn điệu, thông tin như tin tức đã đăng, phát trên các phương tiện thông tin đại chúng, ít có thông tin nội bộ - vốn là đặc trưng, thế mạnh của tuyên truyền miệng và đã được quy định tại Quy chế 340 của Ban Bí thư. Một số trường hợp, báo cáo viên còn có biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm.
Phản bác các thông tin xấu độc còn nặng về lý luận, chưa có tính thuyết phục cao. Chưa thực hiện thường xuyên, hiệu quả nội dung đối thoại tại hội nghị báo cáo viên. Nhiều báo cáo viên chưa chủ động tiến hành đối thoại với người nghe; người nghe cũng không hoặc rất ít đặt câu hỏi đối với báo cáo viên khi có gợi ý từ phía báo cáo viên và ban tổ chức hội nghị. Hội nghị báo cáo viên trực tuyến được tổ chức thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, như: Chất lượng đường truyền nhiều lúc không ổn định (hình ảnh, âm thanh không rõ, bị mất tín hiệu…); nội dung đối thoại ở hội nghị trực tuyến rất ít; nhiều đại biểu không tập trung theo dõi nội dung, làm việc riêng trong hội nghị...
Việc cung cấp thông tin qua các bản tin, tài liệu chuyên đề cũng còn nhiều hạn chế. Không ít tin, bài thiếu tính thời sự, chất lượng nội dung chưa cao, chưa thật sự hấp dẫn và hữu ích đối với bạn đọc; nhiều vấn đề “nóng”, phức tạp, nhạy cảm được dư luận đặc biệt quan tâm chưa được đề cập trong các bản tin. Việc phát hành bản tin qua đường bưu điện đôi khi còn chậm.
- Về quản lý hoạt động báo cáo viên
Một số nơi, công tác khảo sát thực tế ở cơ sở, kiểm tra hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chưa được tiến hành thường xuyên. Công tác tham mưu cho Thường trực cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên còn thụ động.
Công tác tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên các cấp và tuyên truyền viên cơ sở còn nhiều hạn chế. Do vậy, nhiều báo cáo viên chưa nắm chắc kỹ năng, phương pháp về tuyên truyền miệng, như kỹ năng giới thiệu nghị quyết của Đảng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của nhiều báo cáo viên còn yếu. Việc cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền đối với đội ngũ báo cáo viên các cấp và tuyên truyền viên cơ sở đã có nhiều cố gắng, đổi mới nhưng nhìn chung còn bị động, có trường hợp “chạy theo” sự kiện, vấn đề.
- Về chế độ, chính sách: Chưa có văn bản quy định, hướng dẫn chế độ thù lao đối với báo cáo viên khi thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền miệng. Chế độ phụ cấp (theo Hướng dẫn 06) hiện chỉ áp dụng đối với đội ngũ báo cáo viên 3 cấp, không áp dụng cho tuyên truyền viên cơ sở.
PHẦN THỨ BA
VIỆC TRIỂN KHAI QUY CHẾ HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN CỦA ĐẢNG
(Ban hành kèm theo quyết định số 973- QĐ/BTGTW ngày 15/12/2021 của Ban Tuyên giáo Trung ương, gọi tắt là Quy chế 973)
Sau 10 năm thực hiện Quy chế 518 (Quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng, ban hành kèm Quyết định 518 ngày 10/11/2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương), Ban Tuyên giáo TW ban hành Kế hoạch số 432-KH/BTGTW ngày 01/10/2020 về việc tổng kết Quy chế này. Theo đó, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc TW, TW MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng báo cáo tổng kết, đánh giá việc triển khai thực hiện Quy chế. Tháng 10/2021, trên cơ sở tổng hợp báo cáo của 73 đơn vị, qua phân tích ý kiến đề xuất, kiến nghị của đội ngũ báo cáo viên các cấp, Trung tâm TTCTTG đã trình Lãnh đạo Ban báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Quy chế và xây dựng Quy chế mới (Quy chế 973).
- So sánh, đối chiếu với Quy chế 973 và 518:
Quy chế 518 gồm có 10 điều, với các phần chính: (1) Quy định chung; (2) Tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên; (3) Quản lý hoạt động báo cáo viên.
Quy chế 973 gồm 16 điều, tăng 6 điều so vơí Quy chế cũ, với 3 phần chính (1) Báo cáo viên của Đảng; (2) Tuyên truyền viên nòng cốt của cấp ủy cơ sở đảng và (3) Khen thưởng, kỷ luật.
- Một số nội dung mới đáng chú ý:
(1) Tại khoản 2, Điều 1, xác định rõ Báo cáo viên được tổ chức theo 3 cấp: Báo cáo viên Trung ương; Báo cáo viên tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Báo cáo viên cấp tỉnh); Báo cáo viên huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ (gọi tắt là Báo cáo viên cấp huyện).
Quy định này phù hợp với cách tính phụ cấp theo Hướng dẫn 31 (Hướng dẫn số 31-HD/BTGTW ngày 30/12/2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương về xây dựng, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên các cấp) cũng như Hướng dẫn liên ban 06 về thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với báo cáo viên các cấp.
Theo đó, nếu địa phương nào vẫn tính đến đội ngũ báo cáo viên của cấp ủy xã, phường, thị trấn (gọi tắt là báo cáo viên cấp xã thì cần xem xét, điều chỉnh cho phù hợp)
(2) Điểm e, khoản 2, Điều 3 bổ sung quy định “Định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả hoạt động tuyên truyền miệng với ban tuyên giáo cùng cấp”. Khoản 6 Điều 7 “Cơ quan quản lý báo cáo viên trình cấp uỷ quyết định đưa ra khỏi danh sách những báo cáo viên không thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền miệng; không tham dự đủ 50% số hội nghị báo cáo viên do ban tuyên giáo cùng cấp tổ chức trong một năm (trừ trường hợp có lý do chính đáng)”.
Đề nghị các đồng chí chú ý các quy định này bởi nó là căn cứ để xem xét, thực hiện quy định tại Điều 15, 16 về khen thưởng, kỷ luật trong công tác TTM, hoạt động BCV, TTV cũng như xét khen thưởng hàng năm.
(3) Điểm a, khoản 1, Điều 6 quy định rõ “Cấp ủy đảng các cấp lựa chọn cán bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn để xây dựng đội ngũ báo cáo viên của cấp mình đủ số lượng, đúng thành phần, đáp ứng yêu cầu công tác, đảm bảo số lượng theo Hướng dẫn Liên Ban số 06-HD/BTCTW-BTGTW, ngày 15/8/2011”
Theo đó, số lượng BCV TW do Ban TGTW xem xét, quyết định (hưởng phụ cấp 0.5 mức lương tối thiểu); BCV cấp tỉnh không quá 50 người (riêng đảng bộ Hà Nội, TP HCM, Thanh Hóa, Nghệ An, Quân đội không quá 60 người, phụ cấp 0.3) và cấp huyện không quá 30 người (phụ cấp 0.2 mức lương tối thiểu)
Thời gian qua, do việc sáp nhập cấp huyện, một số địa phương đã gặp khó khăn trong vấn đề xác định số lượng và chi trả phụ cấp cho đội ngũ báo cáo viên cấp này. Tuy vậy, trước mắt, rất mong các đồng chí chia sẻ, thực hiện đúng theo quy định này.
(4) Điểm d, khoản 2, Điều 6 bổ sung quy định “Ứng dụng công nghệ thông tin để kịp thời cung cấp thông tin, tài liệu cho đội ngũ báo cáo viên”.
Thưa các đồng chí, thực hiện quy định này, năm 2021 Ban Tuyên giáo Trung ương đã cho ra mắt Ứng dụng (App) “Thông tin tuyên giáo” trên điện thoại di động và dự kiến đầu tháng 8 tới sẽ ra mắt Trang tin điện tử tổng hợp “baocaovien.vn”.
Rất mong các đồng chí thường xuyên theo dõi, cập nhật, cho ý kiến góp ý để App và Trang tin ngày càng đáp ứng được yêu cầu của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trên cả nước (dự kiến bản chạy thử nghiệm trên môi trường internet của Trang tin sau ngày 15/6).
(5) Về quy định tại Khoản 2, Điều 7 “Đơn vị tham mưu lĩnh vực công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên thuộc Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, thành uỷ giúp Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, thành uỷ cung cấp thông tin, quản lý, hướng dẫn chỉ đạo hoạt động của báo cáo viên cấp tỉnh”.
Quy định này thay cho quy định cũ là “Trung tâm thông tin công tác tuyên giáo cấp tỉnh”, phù hợp với quy định về bộ máy tổ chức các BTG tỉnh, thành ủy hiện nay.
Nhân Hội nghị hôm nay, đề nghị các đồng chí cân nhắc khi Ban TGTW đề nghị các BTG tỉnh, thành ủy xem xét việc sắp xếp, đặt tên các phòng chuyên môn theo Quy định 04-QĐ/TW ngày 25/6/2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc tỉnh ủy, thành ủy. Mong các đồng chí tính toán, cân nhắc để sắp xếp đơn vị tham mưu lĩnh vực công tác này vào chung phòng, ban nào là phù hợp, hiệu quả nhất.
(6) Về quy định liên quan đến đội ngũ tuyên truyền viên, hiện đang là khó khăn cho một số BTG các tỉnh, thành ủy tại Điểm C, Khoản 1, Điều 12: “Được trả chế độ thù lao khi tham gia nhiệm vụ tuyên truyền miệng; mức chi trả do tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình, điều kiện thực tế của địa phương quyết định”.
Nhiều BTG tỉnh, thành ủy mong muốn quy định này cụ thể hơn để địa phương dễ triển khai thực hiện. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của Đảng, Chính phủ và trên cơ sở trao đổi với các vụ, đơn vị chức năng của Ban Tổ chức Trung ương, Ban TGTW rất khó có thể có các quy định rõ, cụ thể về nội dung này.
* Cụ thể:
Cơ sở nghiên cứu:
- Kết luận số 17-KL/TW ngày 11/9/2017 của Bộ Chính trị về tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015 – 2016; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2017 – 2021;
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
- Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2011 về công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 8/4/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
- Nghị định số 34/2019/NĐ- CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố;
- Hướng dẫn số 28-HD/BTCTW ngày 28/2/2020 của Ban Tổ chức Trung ương về hướng dẫn việc thực hiện sắp xếp tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức cơ quan đảng, MTTQ và các đoàn thể xã hội ở những địa phương thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
* Một số nội dung quy định đáng chú ý
- Thực hiện nghiêm và nhất quán việc khoán kinh phí chi trả phụ cấp cho số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố gắn với mô hình hội đồng tự quản trong cộng đồng dân cư (Kết luận số 17-KL/TW ngày 11/9/2017 của Bộ Chính trị).
- Cán bộ, công chức cấp xã kiêm nhiệm chức danh …thì được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm bằng 20% mức lương hiện hưởng. Khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng được hưởng chế độ: cấp tài liệu, hỗ trợ 1 phần tiền ăn, hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ quan tới nơi học tập. (Nghị định 92).
- Người hoạt động không chuyên trách cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp. Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh do HĐND cấp tỉnh quy định với mức không vượt quá hệ số 1.0 mức lương tối thiểu chung. Ngân sách Trung ương hỗ trợ địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách. UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách. Chế độ chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố.. thì mỗi thôn, tổ dân phố bố trí không quá 3 người. Mức phụ cấp mỗi người không quá 1.0 hệ số lương tối thiểu chung. (Nghị định 92).
- UBND huyện có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức, thực hiện chế độ tiền lương và chế độ, chính sách khác đối với công chức cấp xã (Nghị định 112).
- Cán bộ, công chức cấp xã kiêm nhiệm chức danh… được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm gồm; 50% mức lương (bậc 1), cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo (nếu có) của chức danh kiêm nhiệm. Trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh cũng chỉ được hưởng một mức phụ cấp kiêm nhiệm. UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quy định cụ thể về: chức danh và số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hoặc thấp hơn; quy định cụ thể về mức phụ cấp của từng chức danh, mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố không quá 3 người được hưởng phụ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước và chỉ áp dụng với; Bí thư chi bộ, Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận. Những người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố không thuộc chức danh nêu trên không được hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố từ đoàn phí, hội phí khoán cho các đoàn thể hoặc từ các nguồn quỹ khác (nếu có). UBND tỉnh trình HĐND cùng cấp quy định mức phụ cấp cho từng chức danh, mức phụ cấp kiêm nhiệm và mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố (Nghị định 34).
Như vậy, theo các quy định hiện hành thì đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở (cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố…) được hưởng chế độ lương, phụ cấp theo quy định.
Việc các đồng chí cán bộ cấp xã (Bí thư, Phó Bí thư đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Chủ tịch MTTQ, Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh)… nếu kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ là tuyên truyền viên thì việc được hưởng thêm phụ cấp kiêm nhiệm do HĐND cấp tỉnh xem xét. Nếu người hoạt động không chuyên trách tại cấp xã hay thôn, tổ dân phố kiêm nhiệm là tuyên truyền viên thì mức phụ cấp hay bồi dưỡng trực tiếp cũng do UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định. Riêng ở tổ dân phố, thôn, bản thì chỉ có 03 người được hưởng phụ cấp hàng tháng từ ngân sách. Số còn lại, được nhận bồi dưỡng cho các công việc cụ thể, mức bồi dưỡng do UBND tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định.
Do vậy, quy định rõ về chi trả phụ cấp hàng tháng với đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở là không khả thi; tùy thuộc HĐND các tỉnh xem xét, quyết định.
Bên cạnh đó, đề nghị các đồng chí tham mưu với Thường trực cấp ủy quan tâm, vận dụng quy định tại Thông tư 36 năm 2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để chi trả thù lao cho báo cáo viên khi thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền miệng (như Hướng dẫn công tác tuyên truyền miệng năm 2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã đề cập)./.